Công đồng Nicaea (Hội nghị tôn giáo Nicaea)

Từ Từ điển tri thức Hội Thánh của Đức Chúa Trời
Phiên bản vào lúc 07:26, ngày 13 tháng 9 năm 2024 của Qhdud7123 (thảo luận | đóng góp)
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Nicaea (nay là Iznik), nơi tổ chức Công đồng Nicaea, nằm ở bờ đông của hồ Iznik về phía tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ.

Công đồng Nicaea (Council of Nicaea) là công đồng[1] quốc tế được tổ chức tại Nicaea (Iznik, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) thuộc khu vực Tiểu Á. Còn được gọi là “Hội nghị tôn giáo Nicaea”.
Công đồng Nicaea đã được tổ chức hai lần vào năm 325 và 787. Lần thứ nhất được triệu tập bởi hoàng đế La Mã Constantine I (tiếng Latinh: (tiếng Latinh: Flavius Valerius Aurelius Constantinus, tại vị: 306-337). Đây là hội nghị tôn giáo đầu tiên của giáo hội công giáo La Mã. Vấn đề bàn luận chủ yếu là Tranh luận về Lễ PaschaTranh luận về Arius. Lần thứ hai được triệu tập vào năm 787 bởi nữ hoàng Irene của đế quốc Đông La Mã (Đế chế Byzantine), nhằm xác lập việc tôn kính tranh tượng thánh. Khi nhắc đến “Công đồng Nicaea” thì thường là đề cập đến Công đồng Nicaea lần thứ nhất, là hội nghị có ý nghĩa lớn trong lịch sử.
Các công đồng trên thế giới cũng được gọi là “Công đồng Đại kết (Ecumenical Councils, tiếng Latinh: Concilium Ecumenicum)”, đã có 7 lần được tổ chức trong lịch sử nhằm phân định chính thống và tà đạo thông qua sự thảo luận của các giáo chủ. Công đồng Nicaea lần thứ nhất (325), Công đồng Constantinopolis (Constantinople) (381), Công đồng Êphêsô (431), Công đồng Chalcedon (451) lần thứ nhất, Công đồng Constantinopolis lần thứ 2 (553), Công đồng Constantinopolis lần thứ 3 (680) và Công đồng Nicaea lần thứ 2 (787). Một cách trùng hợp, Công đồng lần thứ nhất và lần cuối cùng trong 7 lần đều được tổ chức tại Nicaea.

Bối cảnh

Tranh thánh trong tu viện Mateora, Hy Lạp, miêu tả về Công đồng Nicaea lần thứ nhất

Công đồng Nicaea lần thứ nhất được tổ chức trong khoảng 2 tháng ở cung điện của hoàng đế La Mã tại Nicaea vào tháng 5 năm 325. Đây là cuộc họp nhằm giải quyết tranh luận về Arius, một vấn đề của hội thánh thế giới, và tranh luận về Lễ Pascha, vốn là cuộc tranh luận lâu dài giữa Hội Thánh Đông phương và hội thánh Tây phương. Ngoài ra, Công đồng cũng quy định về cơ cấu hội thánh, phẩm tánh của giáo sĩ, sự tái nhập đạo và sự sám hối công khai của những kẻ bội đạo.
Công đồng Nicaea là hội nghị tôn giáo được tổ chức bởi Constantine I - là hoàng đế chứ không phải bởi giám mục của hội thánh. Đây là điểm đặc biệt của Công đồng Nicaea. Mọi chi phí trong thời gian lưu trú của các giám mục cũng do hoàng gia chi trả.[2]

Khái quát

  • Thời gian: Từ tháng 5 đến tháng 6 năm 325
  • Người triệu tập: Hoàng đế Constantine
  • Địa điểm: Nicaea, cung điện của hoàng đế[2]
  • Người tham gia: Hơn 300 giám mục của Hội Thánh Đông phương và Tây phương[3]
  • Vấn đề bàn luận chủ yếu: ① Tranh luận về Arius   ② Vấn đề ngày tháng Lễ Phục sinh[4][5]

Mưu đồ chính trị của Constantine

Bởi việc ban hành sắc lệnh Milan vào năm 313 và công nhận Cơ Đốc giáo, Constantine đã tự xưng là “người bảo trợ của giáo hội” và gây sức ép cho hội thánh. Năm 325, dưới danh nghĩa chỉnh lý giáo lý của Cơ Đốc giáo, các giám mục của Hội Thánh Đông phương và Tây phương đã được triệu tập đến Công đồng Nicaea.
Trên thực tế, Công đồng Nicaea là hội nghị tôn giáo bị can thiệp bởi mục đích chính trị của Constantine.[6] Constantine đã đưa Cơ Đốc giáo vào để hợp nhất La Mã vốn đang hỗn loạn thành một đế quốc và hợp nhất toàn thể người dân La Mã hướng đến “một hoàng đế, một vị thần”. Song, khi Cơ Đốc giáo rơi vào xung đột nội bộ do nhiều tranh luận, thì cần phải chấm dứt xung đột giữa các Hội Thánh Đông phương và Tây phương, đồng thời phải thống nhất các giáo lý để đạt đến sự ổn định của đế quốc.[7] Constantine đã phát biểu với tư cách là người chủ trì của Công đồng Nicaea, tuyên bố rõ ràng rằng sẽ can thiệp vào các vấn đề của hội thánh và đóng vai trò là người đứng đầu hội thánh.[8]

Quyết định của Công đồng Nicaea

Có hai vấn đề chính đã được quyết định thông qua Công đồng Nicaea. Một là bài trừ chủ nghĩa Arian, thuyết phủ nhận thần tánh của Đấng Christ, hai là thay đổi ngày tháng lễ tiệc thánh Lễ Vượt Qua mà Hội Thánh sơ khai đã giữ.

Quy định chủ nghĩa Arian là tà đạo

Bức tranh miêu tả hình ảnh công bố tín điều Nicaea. Công đồng Nicaea lần thứ nhất đã công bố tín điều Nicae và định tội chủ nghĩa Arian.
  • Rút phép thông công đối với Arius

Một trong những vấn đề đưa ra bàn luận tại Công đồng Nicaea là “Tranh luận về Arius (Arius Controversy)”. Cuộc tranh luận về Arius bắt nguồn khi Arius - trưởng lão của Giáo hội Alexandria, Ai Cập chủ trương rằng Đức Chúa Jêsus không phải là Đức Chúa Trời nhưng chỉ là một thọ tạo. Trong số 300 giám mục có mặt tại Công đồng Nicaea, có khoảng 20 người ủng hộ Arius.
Tại Công đồng Nicaea, người đứng về phía đối lập với Arius là Athanasius. Athanasius là người Hy Lạp đến từ Alexandria, ông đã gay gắt chống đối học thuyết của Arius, khẳng định rằng Đấng Christ ngang bằng với Đức Chúa Trời. Constantine đã yêu cầu các giám mục ký vào tín điều Nicaea với nội dung rằng “Đức Chúa Jêsus đồng nhất với Đức Chúa Trời (Homoousios, tiếng Hy Lạp: ὁμοούσιος, nghĩa là ‘bản chất đồng nhất'])”. Có 17 giám mục phản đối điều này, nhưng vì hoàng đế đe dọa sẽ rút phép thông công, nên cuối cùng số người phản đối đã giảm xuống còn 2 người. Rốt cuộc, 2 giám mục của hội thánh châu Phi từ chối ký đã bị rút phép thông công cùng với Arius và bị đày đến Illyricum, còn sách của Arius đã bị đốt.

  • Sự thông qua tín điều Nicaea

“Tín điều Nicaea (tiếng Anh: Nicene Creed, tiếng Hy Lạp: Σύμβολον τῆς Νικαίας, tiếng Latinh: Symbolum Nicaenum)” được tuyên bố tại Công đồng Nicaea, còn được coi là bản tuyên ngôn đức tin của Cơ Đốc giáo. Tín điều Nicaea là giáo lý cơ bản của thần học trong giáo hội công giáo La Mã. Nhiều người theo giáo hội cải cách Tin lành xuất hiện sau cải cách tôn giáo, đã gọi tín điều Nicaea là “Tam Vị Nhất Thể” và chấp nhận điều này như một giáo lý chính thống của Cơ Đốc giáo.
Ngày nay, tín điều Nicaea thường được nhắc đến trong Cơ Đốc giáo là “Kinh tin kính Nicaea - Constantinopolis (Niceno–Constantinopolitan Creed)”, là tín điều Nicaea do Công đồng Constantinopolis đã cải biên và thông qua vào năm 381.

Nguyên văn tiếng Hy Lạp của Tín điều Nicaea Phiên dịch tiếng Việt [9]

Πιστεύομεν εἰς ἕνα Θεὸν Πατέρα παντοκράτορα
πάντων ὁρατῶν τε καὶ ἀοράτων ποιητήν·
καὶ εἰς ἕνα Κύριον Ἰησοῦν Χριστὸν
τὸν Υἱὸν τοῦ Θεοῦ,
γεννηθέντα ἐκ τοῦ Πατρὸς μονογενῆ
τουτέστιν ἐκ τες οὐσίας τοῦ Πατρος
Θεὸν ἐκ Θεοῦ,
Φῶς ἐκ Φωτός,
Θεὸν ἀληθινὸν ἐκ Θεοῦ ἀληθινοῦ,
γεννηθέντα, οὐ ποιηθέντα,
ὁμοούσιον τῷ Πατρί,
δι' οὗ τὰ πάντα ἐγένετο
τά τε ἐν τῷ οὐρανῷ καὶ τὰ ἐν τῇ γῇ,
τὸν δι' ἡμᾶς τοὺς ἀνθρώπους, καὶ
διὰ τὴν ἡμετέραν σωτηρίαν,
κατελθόντα,
καὶ σαρκωθέντα,
καὶ ἐνανθρωπήσαντα,
παθόντα,
καὶ ἀναστάντα τῇ τρίτῃ ἡμέρᾳ,
ἀνελθόντα εἰς τοὺς οὐρανούς,
ἐρχόμενον κρῖναι ζῶντας καὶ νεκρούς.
καὶ εἰς τὸ Ἅγιον Πνεῦμα.
Τοὺς δὲ λέγοντας Ἦν ποτε ὅτε οὐκ ἦν,
καὶ Πρὶν γεννηθῆναι οὐκ ἦν,
καὶ ὅτι Ἐξ οὐκ ὄντων εγένετο,
ἢ Ἐξ ἑτέρας ὑποστάσεως ἢ οὐσιάς φάσκοντας εἶναι
ἢ κτιστόν
ἢ τρεπτόν
ἢ ἀλλοιωτὸν τὸν Υἱὸν τοῦ Θεοῦ,
τούτους ἀναθεματίζει ἡ ἁγία καθολικὴ καὶ ἀποστολικὴ ἐκκλησία.

Tôi tin kính một Thiên Chúa,
là Cha toàn năng, Ðấng tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình.
Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô,

Con Thiên Chúa,
sinh bởi Ðức Chúa Cha là con một duy nhất;
bởi bản thể Chúa Cha.
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.
Đồng bản thể với Ðức Chúa Cha.
Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành trên trời đất.
Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta,
Người đã xuống thế nhập thể
và đã làm người.
Người chịu khổ hình,
ngày thứ ba Người sống lại, lên trời,
và Người sẽ đến
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.

[Nhưng bây giờ kẻ nào dám nói:

“Đã có lúc Ngôi Lời không hiện hữu”,
“Người không hiện hữu trước khi được tạo thành”,
và “Người đã được tạo thành từ hư không”,
hay “Người là một bản thể (hypostasis) hoặc ngôi vị (ousia) khác”,
hoặc “Con Thiên Chúa đã được tạo thành,

bất toàn và thay đổi”
- những kẻ này bị lên án
bởi giáo hội tông truyền.]

Lễ tiệc thánh vào Lễ Phục Sinh

Công đồng Nicaea cũng là hội nghị nhằm chấm dứt các cuộc tranh luận về Lễ Pascha (Paschal Controversies), kéo dài hơn 200 năm từ khoảng năm 150. Cuộc tranh luận về Lễ Pascha nổ ra từ những chủ trương sai lệch về ngày tháng của lễ tiệc thánh giữa Hội Thánh Đông phương và hội thánh Tây phương, vào thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4. Pascha (πάσχα) là từ phiên âm thành tiếng Hy Lạp bắt nguồn từ chữ Pesach (פֶּסַח) trong tiếng Hêbơrơ. Pesach là ngày người dân Ysơraên được giải phóng khỏi xứ Êdíptô, tức là Lễ Vượt Qua.
Lúc bấy giờ, hội thánh Tây phương có trung tâm là La Mã đã tổ chức lễ tiệc thánh vào Lễ Phục Sinh, dù lễ tiệc thánh vốn được cử hành vào Lễ Vượt Qua theo Kinh Thánh. Song, Hội Thánh Đông phương lại cử hành Lễ Vượt Qua vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch, và giữ Lễ Phục Sinh vào Chủ nhật sau Lễ Vượt Qua.

Song, đã có sự khác nhau giữa hội thánh Đông Tây phương. Ngày được coi là ngày quan trọng nhất ở Asingày 14 tháng Nisan... và đã có thói quen cử hành lễ tiệc thánh cảm tạ (Eucharist). Song, hội thánh Tây phương đã tiếp tục kiêng ăn cho tới tận Chủ nhật đầu tiên đến sau ngày 14 tháng Nisan, rồi cử hành lễ tiệc thánh Lễ Vượt Qua, điều này bắt nguồn từ chủ trương rằng Chúa đã phục sinh vào Chủ nhật của tuần ấy.
— J.W.C Wand, 《Sử Hội Thánh (Tập 1)》, dịch bởi Lee Jang Sik, Hội Văn thư Cơ Đốc giáo Đại Hàn, năm 2000, trang 121

Constantine không hài lòng về sự khác biệt này và đã muốn thống nhất ngày tháng của lễ tiệc thánh. Ông cho rằng không nên tuân theo phong tục của người Giuđa, là dân tộc đã đóng đinh Chúa Cứu Thế, và yêu cầu mọi người phải cử hành lễ tiệc thánh vào ngày này theo phong tục của hội thánh phương Tây, thay vì cử hành lễ tiệc thánh vào ngày 14 tháng Nisan (Lễ Vượt qua).[10] Theo yêu cầu của hoàng đế, Công đồng Nicaea được tổ chức trong khoảng 2 tháng, đã xóa bỏ Lễ Vượt Qua vốn được cử hành vào ngày 14 tháng 1 thánh lịch, và quyết định cử hành lễ tiệc thánh vào ngày Đức Chúa Jêsus phục sinh. Hơn nữa, ngày tháng của Lễ Phục Sinh đã được đổi thành “Chủ nhật đầu tiên sau trăng tròn (ngày rằm) tính từ xuân phân”.[11] Bởi vì khó để tính ngày tháng theo chuyển động của mặt trăng vào mỗi năm.

Vào thời giáo hoàng Victor (tại vị 189-199), các hội thánh thuộc khu vực Tiểu Á đã cử hành lễ kỷ niệm sự phục sinh của Đức Chúa Jêsus vào ngày 16 cùng tháng sau khi đã kỷ niệm sự Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh và qua đời vào Lễ Pascha của người Giuđa, tức ngày 14 tháng Nisan, còn ở La Mã tổ chức vào Chúa nhật sau ngày 14 tháng Nisan. Việc cử hành lễ kỷ niệm sự phục sinh vào Chúa nhật đầu tiên sau trăng tròn tính từ xuân phân (21 tháng 3) như ngày nay chính là sự tiếp nối đã được quyết định tại Công đồng Nicaea vào năm 325.
— James C. Gibons, 《The Faith of Our Fathers》, dịch bởi Jang Myeon, NXB Catholic, 2005, trang 139

Sau này, nhiều nhà thần học đã định nghĩa tranh luận Pascha là “Tranh luận về ngày tháng Lễ Phục Sinh”, và gọi đó là Tranh luận về Lễ Phục Sinh (復活節論爭).[12] Ấy là vì sử giáo hội đã được ghi chép theo chủ trương của hội thánh Tây phương, là phía giành thắng lợi trong cuộc tranh luận về Lễ Pascha. Trên thực tế, biểu hiện thích hợp phải là “Tranh luận về Lễ Vượt Qua (Pascha)[13]”.

Sự hạn chế của Công đồng Nicaea

Sai lầm của tín điều Nicaea

  • Tín điều mơ hồ

Dù tín điều về “Đức ChaĐức Con là đồng đẳng” được thông qua tại Công đồng Nicaea, có thể đã nhất thời định tội phái Arius, nhưng lại không thể tiếp cận được trọng tâm của “Ba Vị Thánh Nhất Thể”. Tín điều Nicaea biểu hiện rằng Đức Con - Đức Chúa Jêsus Christ là “Con một của Đức Cha” và “có bản chất đồng nhất với Đức Cha”. Từ “Homoousios (ὁμοούσιος)” được sử dụng với ý nghĩa “bản chất đồng nhất”, đã nêu lên khái niệm “Đức Cha = Đức Con”, nhưng trên thực tế khái niệm này lại rất mơ hồ.[14] Kết quả là, kể cả sau Công đồng Nicaea, các cuộc tranh luận về bản chất của Đấng Christ vẫn tiếp diễn.[15] Bởi đó trong lịch sử hội thánh, chủ nghĩa Arian nhấn mạnh nhân tính của Đấng Christ cứ liên tiếp xuất hiện nhằm phản đối thần tính của Đấng Christ.
Cho đến tận ngày nay, không chỉ các Cơ Đốc nhân, những người tin vào Tam Vị Nhất Thể mà kể cả các nhà thần học cũng công nhận rằng “Đức Chúa Jêsus Christ = Con trai của Đức Chúa Trời”, nhưng họ lại không dễ dàng thừa nhận rằng “Đức Chúa Jêsus Christ = Đức Chúa Trời”. Cũng có hội thánh cho rằng Đức Cha và Đức Con đều ở trong một Đấng Đức Chúa Trời, nhưng lại tồn tại với vị cách riêng biệt trong đó. Cũng có hội thánh coi Đức Chúa Jêsus là vật thọ tạo giống như loài người hoặc là một trong các thiên sứ. Cũng có người chủ trương rằng vì Đức Cha và Đức Con có ý muốn và mục đích giống nhau nên được biểu hiện là nhất thể, nhưng trên thực tế thì Đức Cha và Đức Con là khác nhau. Hiện nay, một số giáo phái như Nhân chứng Giêhôva chủ trương rằng “Đức Cha và Đức Con có bản chất khác nhau”, có thể coi đó là một dạng của chủ nghĩa Arian.
Hơn nữa, trong tín điều Nicaea không có bất cứ lời giải thích nào về Đức Thánh Linh. Kể từ sau Công đồng Nicaea, Cơ Đốc giáo chỉ truyền lại thuật ngữ “Tam Vị Nhất Thể” như là giáo lý thần học hữu danh vô thực, trong trạng thái không thể đạt đến sự hiểu biết theo Kinh Thánh rằng “Đức Cha = Đức Thánh Linh”, “Đức Con = Đức Thánh Linh”, và thậm chí không nhận thức được về kể cả bản chất của Đức Thánh Linh.

  • Ba Vị Thánh Nhất Thể theo Kinh Thánh.

Công đồng Nicaea là nơi mà lẽ thật được phán quyết bởi cuộc thảo luận theo phép biện chứng của các nhà triết học,[16] và có sự can thiệp bởi tham vọng chính trị của hoàng đế. Ba Vị Thánh Nhất Thể không phải là nội dung có thể được công nhận hay phủ nhận bởi giáo lý thần học, mà ấy là lẽ thật của Kinh Thánh đã được nhấn mạnh từ thời Hội Thánh sơ khai. Lẽ thật là đạo (đường lối) do Đức Chúa Trời trực tiếp dạy dỗ, chứ không phải là điều có thể đạt được thông qua triệu tập hội nghị tôn giáo và tranh luận của các nhà thần học.[17]
Ba Vị Thánh Nhất Thể theo Kinh Thánh đã được chép bởi sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời, có nghĩa là Đức Cha Giêhôva, Đức Con Jêsus Christ, Đức Thánh Linh Đức Chúa Trời dù có hình ảnh và tên gọi khác nhau nhưng căn bản là cùng một Đấng.[18] Những người hiểu biết về Ba Vị Thánh Nhất Thể như sứ đồ Phaolô hay Giăng, đã nhận thức được rằng Đức Chúa Jêsus Christ chính là Giêhôva Đức Chúa Trời, là Đấng Sáng Tạo.[19][20] Đức Thánh Linh chính là Đức Chúa Jêsus Christ đã hy sinh trên thập tự giá thay thế cho tội lỗi của nhân loại vào 2000 năm trước,[21] và cũng chính là Giêhôva Đức Chúa Trời đã sáng tạo thế gian.[22]

Xóa bỏ Lễ Vượt Qua

Khi Công đồng Nicaea quyết định cử hành lễ tiệc thánh vào Lễ Phục Sinh, thì Lễ Vượt Qua mà Đức Chúa Jêsus Christ lập nên như là giao ước mới đã bị xóa bỏ. Lễ Vượt Qua giao ước mớilễ trọng thể của Đức Chúa Trời mà Hội Thánh sơ khai đã giữ theo ý muốn của Đức Chúa Jêsus, Đấng phán rằng “Ta rất muốn ăn Lễ Vượt Qua trước khi chịu đau đớn”.[23][24] Hội Thánh sơ khai đã cử hành lễ tiệc thánh Lễ Vượt Qua vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch. Ngày tháng Lễ Vượt Qua không phải là phong tục của người Do Thái, mà là ngày do Đức Chúa Trời đã chế định như một điều răn. Thế nên vào ngày này, các thánh đồ đã kỷ niệm sự hy sinh cao cả của Đấng Christ bằng cách ăn bánh và uống rượu nho tượng trưng cho thịt và huyết của Đấng Christ..[25][26]
uy nhiên, kể từ sau Công đồng Nicaea, những người giữ Lễ Vượt qua bị mang tiếng là tà đạo, bị gọi là “Phái ngày 14 (tiếng Latinh: Quārtadecimānī [Quartadecimani], tiếng Anh: Quartodeciman).[27] Dần dần, Lễ Vượt Qua và Lễ Phục Sinh được coi là cùng một ngày, và cuối cùng Lễ Vượt Qua là lễ trọng thể của Cơ Đốc giáo, đã hoàn toàn bị lãng quên. Lễ Bánh Không Men là ngày tưởng nhớ sự khổ nạn thập tự giá của Đấng Christ vào một hôm sau Lễ Vượt Qua, tức ngày 15 tháng 1 thánh lịch cũng đã bị biến mất, và Lễ Phục Sinh theo Kinh Thánh được giữ vào hôm sau ngày Sabát đầu tiên (Chủ nhật đầu tiên) tính từ Lễ Bánh Không Men cũng không còn nữa.

Hội nghị tôn giáo bị can thiệp bởi hoàng đế ngoại bang

Đồng xu của Constantine I vào khoảng năm 315. Trên mặt sau của đồng xu có miêu tả thần mặt trời bất khả chiến bại, và dòng chữ “SOLI INVICTO COMITI” được khắc trên đó với ý nghĩa “Dành cho thần mặt trời bất khả chiến bại, người đồng hành của hoàng đế".
Tranh khảm được chế tác vào khoảng thế kỷ thứ 4 đã miêu tả Đấng Christ như là thần mặt trời.

Constantine, người ủng hộ hội thánh vì mục đích chính trị, đã nắm toàn quyền kiểm soát hội thánh thông qua Công đồng Nicaea, sau đó lợi dụng hội thánh để cai trị toàn bộ đế quốc La Mã như một thể chế chính trị thần quyền.[28][29]
Ông đã đồng nhất thần mặt trời, vốn là thần tối cao của La Mã, với Đức Chúa Trời của Cơ Đốc giáo, và cho đến tận khi qua đời, ông vẫn giữ danh hiệu “Pontifex Maximus (tiếng Latinh)”, nghĩa là thầy tế lễ tối cao của tôn giáo La Mã cổ đại.[30] Thậm chí ông cũng tự phong cho mình một danh hiệu thần thánh và bổ sung thêm từ “Mặt trời bất khả chiến bại (tiếng Latinh: Sol Invictus)”.[30] Các nhà sử học và các nhà thần học Cơ Đốc giáo cho rằng thời điểm Constantine cải đạo sang Cơ Đốc giáo là vào năm 312, sau chiến thắng của ông trong trận chiến tại cầu Milvian,[31][32][33] nhưng tư tưởng tôn kính thần mặt trời vẫn được phản ánh trên đồng tiền mà Constantine phát hành sau khi ông cải đạo sang Cơ Đốc giáo. Trên đồng tiền được phát hành năm 315 có khắc dòng chữ “Thần mặt trời bất khả chiến bại” và “Dành cho thần mặt trời bất khả chiến bại, người đồng hành của hoàng đế”, trên đồng tiền phát hành năm 316 cũng mô tả bản thân Constantine là “Người đồng hành của thần mặt trời”.[34] Dưới ảnh hưởng của Constantine, hầu hết các nghi lễ, giáo lý và văn hóa của đạo thần mặt trời đã được dung nạp vào Cơ Đốc giáo.[35]

Sau Công đồng Nicaea

Sự thế tục hóa của hội thánh

Cơ đốc giáo từng bị đàn áp đã trở thành quốc giáo của đế quốc La Mã vào cuối thế kỷ thứ 4. Quyền uy của hội thánh trở nên lớn mạnh nhờ dựa vào quyền lực của hoàng đế. Mọi hành vi sai lệch so với sự dạy dỗ của hội thánh quốc giáo đều là tội lỗi và bị trừng phạt theo luật hình sự quốc gia.[36] Lúc bấy giờ, Cơ Đốc giáo đã được thịnh hành. Khi ngày càng có nhiều người cải đạo sang Cơ Đốc giáo và trở thành hàng giáo sĩ để được nổi danh tiếng mà không màng đến tín ngưỡng, hội thánh đã tự khắc bị ngoại đạo hóa và chìm đắm trong sự thế tục.[37] Còn các Cơ Đốc nhân than thở về hội thánh bị thế tục hóa đã bỏ vào đồng vắng để giữ gìn lẽ thật trong khi sống cuộc sống khổ hạnh.[38]
Ngay cả trong hội thánh được hưởng nhiều quyền lực nhất, thì quyền lực tối cao cũng được trao cho giám mục của hội thánh La Mã.  Năm 330, Constantine dời thủ đô ở Tây La Mã đến Byzantium ở Đông La Mã và đặt theo tên của mình là “Constantinopolis (tiếng Latinh: Constantinopolis, tiếng Hy Lạp: Κωνσταντινούπολις, tiếng Anh: Constantinople, nay là Istanbul), với ý nghĩa là “Thành phố của Constantine”. Khi hoàng đế dời sang phía Đông, giám mục của hội thánh La Mã đã trở thành tồn tại hùng mạnh ở phía Tây. Về sau thậm chí còn có sức mạnh có thể đối đầu với hoàng thất ở Constantinople. Giám mục La Mã tự xưng là “người kế thừa vị trí của Phierơ”, trở thành người đứng đầu trong các giám mục của mọi hội thánh và được gọi là giáo hoàng.[39]

Xu thế và sự suy thoái của chủ nghĩa Arian

Khoảng năm 495, bộ tộc German theo chủ nghĩa Arian (màu cam) và đế quốc Đông La Mã theo tín điều Nicaea (màu xanh lam)

Tại Công đồng Nicaea, chủ nghĩa Arian có vẻ như đã bị lật đổ, nhưng các nhà lãnh đạo chủ nghĩa Arian đã sớm quay trở lại hội thánh mà họ từng gắn bó trước đây.[40] Họ đã lập mưu tiêu diệt thế lực của phe đối lập. Kể cả sau cái chết của Arius vào năm 336, chủ nghĩa Arian vẫn chiếm ưu thế.
Sau khi Constantine chết vào năm 337, Constans (tại vị 337-350) - người vốn ủng hộ tín điều Nicaea, đã trở thành hoàng đế Tây La Mã, còn Constantius II (tại vị: 337-361) - vốn thân thiện với những người theo chủ nghĩa Arian, đã trở thành hoàng đế Đông La Mã. Khi Constantius trở thành quốc vương duy nhất của đế quốc La Mã vào năm 350, những người giữ theo tín ngưỡng Nicaea đã bị đàn áp.
Năm 364, La Mã một lần nữa bị chia làm hai, Đông La Mã được thống trị bởi Valens (tại vị: 364-378), là người theo chủ nghĩa Arian cấp tiến. Các giám mục Công giáo theo tín điều Nicaea đều bị lưu đày hoặc bức hại. Khi Valens qua đời vào năm 378, Gratianus (tại vị: 375-383), là hoàng đế của Tây La Mã lúc bấy giờ đã nắm quyền cai trị Đông La Mã. Gratianus phục chức cho các giám mục bị Valens trục xuất. Đến năm 379, ông bổ nhiệm Theodosius, tổng tư lệnh quân đội, làm phó vương của Byzantines.
Theodosius I (tại vị: 379-395), là tín đồ Cơ Đốc giáo theo tín ngưỡng Nicaea một cách kiên định. Ông triệu tập Công đồng Constantinople vào năm 381 và chấm dứt tranh cãi về học thuyết của Arius bằng cách nghiêm cấm chủ nghĩa Arian. Tuy nhiên, dù chủ nghĩa Arian có thể đã biến mất trong nội bộ đế quốc La Mã, nhưng từ thế kỷ thứ 4, nó vẫn tiếp tục tồn tại giữa tộc người German di chuyển từ phía bắc đến lãnh thổ của Tây La Mã.
[41]Năm 476, đế quốc Tây La Mã bị diệt vong bởi Odoacer, thủ lĩnh của lính đánh thuê thuộc tộc người German. Tộc người theo chủ nghĩa Arian đã chiếm Tây La Mã. Năm 527, Justianus (tại vị: 527-565) lên ngôi hoàng đế Đông La Mã đã chính thức tuyên bố giáo hoàng La Mã là người đứng đầu hội thánh, đồng thời đánh đổ hai nước theo chủ nghĩa Arian là vương quốc Vandals ở châu Phi và vương quốc Ostrogoths ở Italia. Từ đó, các bộ tộc German từ bỏ chủ nghĩa Arian và theo tín điều Nicaea và hội thánh La Mã.

Công đồng Nicaea lần thứ 2

Công đồng Nicaea lần thứ 2 diễn ra vào năm 787. Đó là Công đồng Đại kết lần thứ 7. Vấn đề bàn luận chủ yếu là giải quyết cuộc tranh luận về tranh tượng thánh[42] nảy sinh khi Leo III, hoàng đế Đông La Mã ra sắc lệnh cấm việc tôn kính tượng thánh vào năm 726. Tại Công đồng lần thứ 2 được triệu tập bởi Nữ hoàng Irene xuất thân từ Athens, Hy Lạp, vốn là người tôn kính tượng thánh, đã quy định lý thuyết phá hủy tượng thánh là tà đạo, và khiến tượng thánh được nâng lên từ đối tượng yêu mến đơn thuần trở thành đối tượng để thờ lạy.[43][44]

Video liên quan

  • 사라진 유월절

Xem thêm

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. "공의회". 표준국어대사전 국립국어원. 교황이 온 세계의 추기경, 주교, 신학자 들을 소집하여 진행하는 공식적인 종교 회의. 교회 전체에 해당하는 교리나 규율에 관하여 토의하고 규정한다.
  2. 2,0 2,1 김경현, 《콘스탄티누스 황제와 기독교》, 세창출판사, 2017, 225쪽
  3. 《한국가톨릭대사전》 제3권, 한국교회사연구소, 1996, 1467쪽, “참석자 수는 250명(에우세비오), 270명(에우스타시오), 300명 이상(콘스탄틴) 등 다양한 설이 있다. 아타나시오는 318명으로 얘기하고 있는데 ... 이는 아브라함의 종 318명(창세 14, 14)을 의미하는 성서상의 상징적 숫자로 보고 있다. 이 때문에 이후 동방에서는 제1차 니체아 공의회를 '318명의 공의회'로 부르곤 하였다.”
  4. 조인형, 《초기기독교사연구》, 한국학술정보, 2002, 435쪽, “니케아 종교회의에서 취급한 안건들은 니케아 신조와 부활절의 절기 문제 ....”
  5. 남경태, 《종횡무진 서양사 1》, 휴머니스트, 2015, “니케아 공의회는 ... 회의에서는 이단 문제 이외에도 부활절의 날짜를 확정하는 문제 등이 논의되었다.”
  6. "325년 니케아 공의회 개최". 동아일보. 2006. 6. 19. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  7. "로마 제국 통일하고 종교 자유 선포한 콘스탄티누스". 한겨레. 2016. 5. 26. 그는 로마인 전체를 '하나의 제국, 하나의 황제, 하나의 신'이라는 이상으로 일치시키고자 그리스도교를 도입했는데, 그 종교가 자유를 얻자마자 내분에 빠졌던 것 ... 제국의 이념적 통일을 기대했던 콘스탄티누스 대제는 이 종교 분쟁을 최대한 빨리 해결해야 했다. 그는 이를 위해 325년에 니케아(Nicea) 공의회를 소집했다. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  8. 김차규, 〈콘스탄티누스의 니케아 공의회 개최 의미〉, 《대구사학》 제70권, 대구사학회, 2003, 179-180쪽, “그는 자신의 이름으로 칙령을 내려 니케아 공의회를 소집하였을 뿐 아니라 이 공의회에 참석하지 않는 주교들에 대해서는 그 죄를 묻겠다고 했다. 또한 콘스탄티누스는 니케아 공의회가 열린 첫날 그 자신이 의장의 자격으로 연설을 하였다.”
  9. 후베르투스 R. 드롭너, 《교부학》, 하성수 역, 분도출판사, 2001, 345-346쪽
  10. 《한국가톨릭대사전》 제3권, 한국교회사연구소, 1996, 1467쪽, “콘스탄틴은 이 토론에서 다음과 같은 세 가지 기준을 고려하도록 요구하였다. ... 첫째, 모든 사람이 세계적인 축일을 같은 날에 거행하도록 한다. 둘째, 구세주의 사형 범죄에 책임을 지고 있는 원수인 유대인의 관습을 더 이상 따르지 않도록 한다. 셋째, 로마, 이탈리아 ... 등지에서 시행하고 있는 관습을 유지하면 좋겠다. 이러한 의견을 포함하여 토론한 결과 니산(Nîsãn)달 14일에 거행하는 유대인의 관습을 더 이상 따르지 않고, 춘분 이후 만월(滿月) 다음 주일로 확정하되 책력(冊曆) 계산은 알렉산드리아 주교좌에 위임하도록 하였다.”
  11. "춘분과 달력". 동아일보. 2020. 3. 21. 로마제국은 ... 325년에는 니케아공의회를 열어 교회 제도와 교리를 정비하기까지 했다. 공의회에서는 그동안 논쟁이 됐던 부활절 날짜를 '춘분이 지난 후 첫 번째 보름달이 뜬 후 첫 번째 일요일'로 결정했다. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  12. "부활절논쟁", 《두산백과 두피디아》
  13. "πάσχα". 네이버 고대 그리스어사전. 1. 고유명사 유월절.
  14. 레오 도널드 데이비스, 《초기 그리스도교 에큐메니컬 7대 공의회》, 이기영 역, 대한기독교서회, 2018, 91-95쪽, “'호모우시오스'(homoousios)는 정말 난해한 용어였다. ... 그러니까 호모우시오스는 영지주의 이단자들이 고안하고, 세례받지 않은 황제가 제안하였으며, 순박한 지지자들은 이 용어를 위험스럽게 여겼는데, 마침내 정통교회가 이 용어를 승인하여 '니케아 신조'에 삽입함으로써 다음에 이어지는 반세기 동안 엄청난 모순의 상징이 되었다.”
  15. 자와할랄 네루, 《세계사 편력 1》, 곽복희 외 역, 일빛, 2004, 157쪽, “기독교도들은 ... 예수의 신격과 삼위 일체설(the Trinity)을 놓고 논란과 분쟁으로 세월을 보냈다. 그들은 서로 이단자라고 욕설을 퍼부으며 박해를 가하고 목을 잘랐으며, 심지어 중모음 하나를 놓고 교파들 사이에 큰 논쟁이 벌어지기도 했다.”
  16. 이냐시오 오르티츠 데 우르비나, 《니케아·콘스탄티노폴리스 공의회》, 황치헌 역, 수원가톨릭대학교출판부, 2018, 86쪽, “토론하는 데에는 능숙하지 않았던 여러 주교들에 의해 이 직업적인 토론 전문가들이 끌어들여졌다는 것을 많은 것들이 암시하고 있다. 그때까지 사람들은 철학과 변증법에 호소하지 않고, 자신의 논거를 오로지 성경과 교회 전통에서 끄집어냈다.”
  17. “미가 4:1-2”. 말일에 이르러는 여호와의 전의 산이 산들의 꼭대기에 굳게 서며 작은 산들 위에 뛰어나고 민족들이 그리로 몰려갈 것이라 곧 많은 이방이 가며 이르기를 오라 우리가 여호와의 산에 올라가서 야곱의 하나님의 전에 이르자 그가 그 도로 우리에게 가르치실 것이라 우리가 그 길로 행하리라 하리니 이는 율법이 시온에서부터 나올 것이요 여호와의 말씀이 예루살렘에서부터 나올 것임이라
  18. “마태복음 28:19”. 너희는 가서 모든 족속으로 제자를 삼아 아버지와 아들과 성령의 이름으로 침례를 주고
  19. “로마서 9:5”. 육신으로 하면 그리스도가 저희에게서 나셨으니 저는 만물 위에 계셔 세세에 찬양을 받으실 하나님이시니라 아멘
  20. “요한복음 1:1–14”. 태초에 말씀이 계시니라 이 말씀이 하나님과 함께 계셨으니 이 말씀은 곧 하나님이시니라 ... 말씀이 육신이 되어 우리 가운데 거하시매 우리가 그 영광을 보니 아버지의 독생자의 영광이요 은혜와 진리가 충만하더라
  21. 요한복음 14:26 보혜사 곧 아버지께서 내[예수님] 이름으로 보내실 성령 그가 너희에게 모든 것을 가르치시고
  22. 고린도전서 2:10 오직 하나님[여호와]이 성령으로 이것을 우리에게 보이셨으니 성령은 모든 것 곧 하나님의 깊은 것이라도 통달하시느니라
  23. “누가복음 22:15, 19-20”. 이르시되 내가 고난을 받기 전에 너희와 함께 이 유월절 먹기를 원하고 원하였노라 ... 또 떡을 가져 사례하시고 떼어 저희에게 주시며 가라사대 이것은 너희를 위하여 주는 내 몸이라 너희가 이를 행하여 나를 기념하라 하시고 저녁 먹은 후에 잔도 이와 같이 하여 가라사대 이 잔은 내 피로 세우는 새 언약이니 곧 너희를 위하여 붓는 것이라
  24. “고린도전서 11:23-26”. 내가 너희에게 전한 것은 주께 받은 것이니 곧 주 예수께서 잡히시던 밤에 떡을 가지사 축사하시고 떼어 가라사대 이것은 너희를 위하는 내 몸이니 이것을 행하여 나를 기념하라 하시고 식후에 또한 이와 같이 잔을 가지시고 가라사대 이 잔은 내 피로 세운 새 언약이니 이것을 행하여 마실 때마다 나를 기념하라 하셨으니 너희가 이 떡을 먹으며 이 잔을 마실 때마다 주의 죽으심을 오실 때까지 전하는 것이니라
  25. “고린도전서 5:7-8”. 너희는 누룩 없는 자인데 새 덩어리가 되기 위하여 묵은 누룩을 내어버리라 우리의 유월절 양 곧 그리스도께서 희생이 되셨느니라 이러므로 우리가 명절을 지키되
  26. “고린도전서 11:23-26”. 내가 너희에게 전한 것은 주께 받은 것이니 곧 주 예수께서 잡히시던 밤에 떡을 가지사 축사하시고 떼어 가라사대 이것은 너희를 위하는 내 몸이니 이것을 행하여 나를 기념하라 하시고 식후에 또한 이와 같이 잔을 가지시고 가라사대 이 잔은 내 피로 세운 새 언약이니 이것을 행하여 마실 때마다 나를 기념하라 하셨으니 너희가 이 떡을 먹으며 이 잔을 마실 때마다 주의 죽으심을 오실 때까지 전하는 것이니라
  27. 필립 샤프, 《교회사전집 3: 니케아 시대와 이후의 기독교》, 이길상 역, 크리스천다이제스트, 2004, 372-373쪽, “그 뒤부터는 모든 지역에서 부활절이 주일에 지키도록 의무화되었다. 유대교 유월절 당일이 아닌 니산 월 제14일 이후, 그러니까 춘분 이후 첫 만월 다음에 오는 주일이 부활절 날짜로 확정되었다. ... 항상 부활절을 니산 월 14일에 지켜온 십사일파(Quartodecimanians)의 유대교적 관습은 이때부터 이단이 되었다.”
  28. 존 줄리어스 노리치, 《비잔티움 연대기 1: 창건과 혼란》, 남경태 역, 바다출판사, 2016, 74-77쪽, “그리스도교 교회의 첫 공의회 ... 결과는 콘스탄티누스의 승리였다. 그는 모든 주요한 쟁점들을 자신이 원하는 방향으로, 그것도 거의 만장일치로 결정하는 데 성공했다. 이제 그는 동방 교회와 서방 교회의 통합을 이룬 것은 물론 그 자신이 통합된 교회 위에 군림하는 도덕적 절대자가 되었다.”
  29. 이노우에 고이치, 《살아남은 로마 비잔틴 제국》, 이경덕 역, 다른세상, 2010, 43-56쪽, “콘스탄티누스는 교의의 문제에는 그다지 깊은 관심이나 지식을 갖지 않았다. 그가 관심을 쏟은 것은 교회의 통일이었다. ... 로마 제국은 위기를 극복하고 살아남기 위해 이처럼 국가와 종교가 합치된 '신의 이름으로 타인을 지배하는' 체제를 만들어냈다.”
  30. 30,0 30,1 이냐시오 오르티츠 데 우르비나, 《니케아·콘스탄티노폴리스 공의회》, 황치헌 역, 수원가톨릭대학교출판부, 2018, 27-28쪽
  31. 김경현, 《콘스탄티누스 황제와 기독교》, 세창출판사, 2019, 68쪽, “기독교 측은 밀비우스 다리에서의 승리와 콘스탄티누스의 기독교 개종을 연결짓는 신화를 만들었다.”
  32. 폴 존슨, 《폴 존슨 기독교의 역사》, 김주한 역, 포이에마, 2013, "기독교 변증가들의 선전에 따르면, 밀리노 칙령은 ... 밀비안 다리에서 하나님을 경험한 이후에 기독교로 개종한 콘스탄티누스가 반포한 것이라고 한다."
  33. 닐 맥그리거, 《100대 유물로 보는 세계사》, 강미경 역, 다산초당, 2014, 324쪽, “‘카이로’는 로마 황제 콘스탄티누스가 312년 기독교로 개종한 다음에 채택한 상징이다. ... 밀비아 다리 전투에서 콘스탄티누스의 개종이 커다란 요인으로 작용했다.”
  34. "coin", British Museum, "Constantine is shown and described as the ‘companion’ of the sun god on a coin minted nearly four years after his reported conversion to Christianity on the eve of the battle of the Milvian Bridge."
  35. 라이온사 편, 《교회사 핸드북》, 송광택 역, 생명의말씀사, 1997, 130-131쪽
  36. 에드워드 기번, 《로마제국 쇠망사》 제2권, 송은주 외 역, 민음사, 2010, 195-196쪽
  37. 필립 샤프, 《교회사전집 3: 니케아 시대와 이후의 기독교》, 이길상 역, 크리스천다이제스트, 2004, 96-141쪽, “이러한 해악들은 '교회의 세속화'라는 일반적인 표현으로 요약할 수 있다. ... 수많은 이교적 관습들과 관행들이 이름만 바꾼 채 예배와 그리스도인의 삶에 끼어들었다. 로마 제국은 우상 숭배의 영향하에서 서서히 커왔기 때문에 일거에 마술적으로 변화될 수 없었다. 그러므로 세속화 과정과 이교화 경향이 나란히 맞물려 진행되었다.”
  38. J. W. C. 완드, 《교회사 초대편》, 이장식 역, 대한기독교서회, 2000, 283쪽, “콘스탄틴 대왕의 힘으로 교회에 평화가 찾아온 후로 교회의 수준이 갑자기 저하된 것을 한탄하여 광야의 금욕 생활에 나간 사람들이 허다하였다.”
  39. 자와할랄 네루, 《세계사 편력 1》, 곽복희 외 역, 일빛, 2004, 166-168쪽, “로마의 주교는 처음에는 다른 주교와 별로 다른 점이 없었지만 황제가 콘스탄티노플로 옮겨간 뒤부터 차츰 권위를 갖기 시작했다. ... 로마의 주교는 베드로의 자리를 계승한 자로서 주교 중의 우두머리로 여겨졌고, 나중에는 교황이라 일컬어지게 되었다.”
  40. 남성현, 《콘스탄티누스 가문의 기독교적 입법정책》, 한국학술정보, 2013, 25쪽
  41. 《기독교대백과사전》 제10권, 기독문화사, 2003, 932쪽, “모든 야만 왕국은 결국 아리우스주의를 포기했거나 아니면 이탈리아의 오스트로고트(동고트)족과 아프리카의 반달족의 경우처럼 아리우스주의를 받아들인 것이 민족적 멸망의 원인중 하나로 판명되었다. 주요 아리우스주의 민족들은 부르군트족·비시고트족·롬바르드족이었다. 이들 각 민족은 격심한 투쟁을 거친 뒤 차례로 자기들이 배웠던 아리우스주의 기독교를 니캐아-로마 신앙으로 바꾸었다.”
  42. "성화상논쟁". 표준국어대사전. 국립국어원. 성화 상이나 성화를 모시는 일을 우상 숭배로 볼 것이냐의 여부를 두고 일어난 논쟁.
  43. "우상파괴 논쟁". 글로벌세계대백과사전. 이미 4세기경부터 성화상숭배의 풍조가 있었으나 일반적으로는 7세기에 성행이 되었다. ... 787년에 황비 이렌[이레네]은 제7회 공회의(公會議)에서 성화상 숭경을 부활시켰다.
  44. "찬란했던 비잔틴 제국에 드리운 그림자". 한겨레. 2016. 7. 14. 황후 이레네는 콘스탄티노플의 총대주교와 함께 로마 교황과 협상한 뒤, 787년 제2차 니케아 공의회를 개최했다. 이 공의회에서는 성화상 파괴자 단죄와 성화상 공경 교리가 확정되었다. 이를 위해 '흠숭'(欽崇·latreia)은 하느님께만 해당되고 '공경'(proskynesis)은 피조물에게도 해당된다는 구별법을 활용했다. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)