Đức Chúa Trời đến trong xác thịt (nhập thể)

육체로 오신 하나님(성육신, 成肉身, the Incarnation)은 기독교 신앙의 본질이다.[1] 2000년 전 초대교회 신앙의 대상이자, 이 시대 전 세계 인구의 30% 이상[2]에 해당하는 기독교인들이 믿고 있는 예수님은 사람으로 오신 하나님이다.[3][4] 초대교회가 예수님을 구원자로 신앙했던 이유는 그리스도에 대한 성경 예언을 성취한 분이 바로 예수님이었기 때문이다. 또한 성경은 인류의 구원을 위해 그리스도가 사람의 모습으로 다시 오실 것도 예언한다.[5] 하나님의 교회가 신앙하는 재림 그리스도 안상홍님에 대한 예언도 초림 때와 같이 성경에 명확히 기록되어 있다.
Đức Chúa Trời đến trong xác thịt (nhập thể, the Incarnation) là bản chất của Cơ Đốc giáo. Là đối tượng đức tin của Hội Thánh sơ khai vào 2000 năm trước, Đức Chúa Jêsus, Đấng mà các Cơ Đốc nhân chiếm hơn 30% dân số thế giới tin vào chính là Đức Chúa Trời đến trong hình dáng loài người. Sở dĩ Hội Thánh sơ khai tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chúa, vì chính Đức Chúa Jêsus là Đấng làm ứng nghiệm lời tiên tri Kinh Thánh về Đấng Christ. Hơn nữa, Kinh Thánh cũng tiên tri rằng Đấng Christ sẽ lại đến lần nữa trong hình ảnh loài người để cứu rỗi nhân loại. Lời tiên tri về Đấng Christ Tái Lâm An Xang Hồng mà Hội Thánh của Đức Chúa Trời tin cậy cũng được ghi chép một cách rõ ràng trong Kinh Thánh giống như thời Sơ Lâm.
Cơ Đốc giáo tin vào Đức Chúa Trời đến trong xác thịt
기독교(基督敎, Christianity, 그리스도교)는 '사람으로 오신 하나님'을 믿는 신앙을 바탕으로 한 종교다. '기독(基督)'이란 '기름부음 받은 사람'이라는 의미의 헬라어 Χριστός(크리스토스)[6]를 한자로 음역한 것이다.[7][8] 성경에는 구원자인 하나님이 사람으로 오신다는 예언이 다수 기록되어 있다. 그중 하나가 선지자 이사야의 예언이다. 기원전 700년경 기록된 이사야서에는 전능하신 하나님이 '한 아기' 즉 사람으로 탄생할 것이 예언되어 있다.[9][10] 이 예언을 성취한 분이 바로 기독교 신앙의 중심인 예수님이다.
Cơ Đốc giáo (Christianity, Christ giáo) là tôn giáo dựa trên tín ngưỡng tin vào “Đức Chúa Trời đến là người”. “Cơ Đốc (基督)” là phiên âm theo Hán ngữ của từ Xριστός (Christós) trong tiếng Gờréc có nghĩa là “người được xức dầu”. Lời tiên tri về Đức Chúa Trời, là Đấng Cứu Chúa đến trong hình dáng loài người được ghi chép rất nhiều trong Kinh Thánh. Một trong số đó là lời tiên tri của đấng tiên tri Êsai. Sách Êsai được ghi chép vào khoảng năm 700 TCN đã tiên tri rằng Đức Chúa Trời toàn năng sẽ giáng sanh như một “con trẻ”, tức là như một con người. Đấng làm ứng nghiệm lời tiên tri này chính là Đức Chúa Jêsus, là trọng tâm đức tin của Cơ Đốc giáo.
Quyền năng và sự nhập thể của Đức Chúa Trời
육체로 오신 하나님에 대한 거부감은 대체로 '사람은 하나님이 될 수 없다'는 생각에서 비롯된다. 당연히 피조물인 사람은 창조주 하나님이 될 수 없다. 그러나 태초에 말씀으로 천지 만물을 창조하고, 출애굽 당시 홍해를 가르신 전지전능하신 하나님은 얼마든지 사람으로 임재할 수 있다.[11] 신구약 성경에는 하나님이 사람 되어 등장한 장면이 기록되어 있다. 구약시대, 여호와 하나님은 두 천사와 함께 아브라함 앞에 행인으로 나타나 음식을 드셨으며 신약시대, 예수님은 동정녀 마리아의 몸을 빌려 아기로 탄생하셨다. 하나님은 영으로만 존재하는 것이 아니라 이처럼 육체로도 나타날 수 있다.[12]
Tấm lòng từ chối Đức Chúa Trời đến trong xác thịt rốt cuộc bắt nguồn từ suy nghĩ rằng “Người thì không thể trở thành Đức Chúa Trời”. Đương nhiên, loài người là vật thọ tạo thì không thể trở thành Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo. Thế nhưng Đức Chúa Trời toàn tri toàn năng, Đấng dựng nên trời đất muôn vật từ thời thái cổ bằng lời phán và phân rẽ biển Đỏ vào thời xuất Êdíptô, có thể đến là người nhiều bao nhiêu cũng được. Trong Kinh Thánh Tân Cựu Ước có ghi chép cảnh Đức Chúa Trời xuất hiện trong hình dáng loài người. Vào thời đại Cựu Ước, Giêhôva Đức Chúa Trời cùng với hai thiên sứ đã hiện ra như người đi đường trước mặt Ápraham và dùng bữa. Vào thời đại Tân Ước, Đức Chúa Jêsus đã giáng sanh như một con trẻ thông qua thân thể của người nữ đồng trinh Mari. Đức Chúa Trời không chỉ có thể tồn tại ở dạng thần, mà còn có thể hiện ra trong xác thịt.

- 아브라함 앞에 행인으로 나타나신 하나님
- ·Đức Chúa Trời hiện ra trước mặt Ápraham như một người đi đường
Đức Giêhôva hiện ra cùng Ápraham nơi lùm cây dẻ bộp của Mamrê, đương khi ngồi nơi cửa trại lúc trời nắng ban ngày. Ápraham nhướng mắt lên, thấy ba người đứng trước mặt.
- 성령으로 마리아의 몸을 통해 태어나신 예수님
- Ðức Chúa Jêsus được sanh ra thông qua thân thể Mari bởi Đức Thánh Linh
Vả, sự giáng sanh của Đức Chúa Jêsus Christ đã xảy ra như vầy: Khi Mari, mẹ Ngài, đã hứa gả cho Giôsép, song chưa ăn ở cùng nhau, thì người đã chịu thai bởi Đức Thánh Linh... Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Jêsus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.
Ðức Chúa Jêsus Christ, Ðức Chúa Trời đến trong xác thịt


오늘날, 성화나 영화에 등장하는 예수님은 수려한 외모와 신비감을 두루 갖춘 모습이 대부분이다. 그러나 이는 성경의 기록과는 거리가 멀다. 이사야 선지자에 따르면 예수님의 외형은 마른땅에서 나온 줄기 같아서 흠모할 만한 모습이 없다고 했다. 로마의 압제에서 자신들을 구원해 줄 초인적인 메시아를 염원했던 유대인들이 정작 구원자로 오신 예수님을 배척한 이유 중 하나다. 예수님의 생활과 환경도 예수님을 구원자로 알아보지 못하게 하는 요인이었다. 유대인들은 예수님의 육신적인 면만 바라보다가 그토록 염원했던 구원자를 배척하고 십자가에 못 박았다. 그러나 성경 예언을 바라보았던 사도들은 비록 사람의 모습으로 오셨어도 예수님을 구원자로 영접했다.
Ngày nay, hình ảnh của Đức Chúa Jêsus xuất hiện trong các bức thánh họa hoặc phim ảnh hầu hết đều có hình dung vừa đẹp đẽ vừa mang đến cảm giác thần bí. Tuy nhiên điều này khác xa với những ghi chép trong Kinh Thánh. Theo đấng tiên tri Êsai, ngoại hình của Đức Chúa Jêsus giống như cái rễ ra từ đất khô, và không có hình dung để được ưa thích. Đây là một trong những lý do người Giuđa đã chống đối Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chúa, dù họ đã rất mong đợi Đấng Mêsi - Đấng siêu nhiên sẽ giải cứu họ khỏi sự áp bức của La Mã. Sinh hoạt và hoàn cảnh của Đức Chúa Jêsus cũng là yếu tố khiến họ không nhìn biết được Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chúa. Những người Giuđa chỉ nhìn vào phần xác của Đức Chúa Jêsus nên đã chối bỏ Đấng Cứu Chúa mà họ hằng mong đợi đến thế, và đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Song, các sứ đồ đã dò xem lời tiên tri Kinh Thánh và tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chúa dù Ngài đã đến trong hình dáng loài người.
Hình dáng, sinh hoạt và hoàn cảnh của Ðức Chúa Jêsus
수세기 동안 서구 문화에서 묘사된 예수님의 이미지는 어깨 길이의 장발, 파란 눈을 가진 백인이었다.[13] 4세기부터 비잔틴제국의 문화가 동방 교회에 영향을 미쳤는데, 비잔틴 예술가들은 강하고 권위 있는 로마 판테온 신전에 있는 신들의 모습을 예수님을 묘사하는 데 차용했다. 6세기 즈음 어깨 길이의 장발과 수염이 있는 모습을 표현한 '그리스도 판토크라토르(Christ Pantokrator)'가 등장했고, 이후 르네상스 시대에 휴머니즘을 배경으로 이상적인 아름다움을 지닌 예수님을 그려낸 예술 작품들이 나타나기 시작했다. 르네상스 문화는 20세기 서구 사회에 예수님의 이미지를 형상화하는 데도 영향을 미쳤다. 미국의 상업 미술가 워너 샐먼이 그린 예수님의 초상이 대표적이다. 이 그림은 스테인드글라스, 달력 등의 이미지로 사용되며 대중에게 큰 인기를 얻었다.[14][15]
Suốt nhiều thế kỷ, hình ảnh Đức Chúa Jêsus được miêu tả trong văn hóa phương Tây là một người da trắng, tóc dài ngang vai với đôi mắt xanh. Từ thế kỷ thứ 4, văn hóa của Đế chế Byzantine ảnh hưởng đến Hội Thánh Đông phương, nơi các nghệ sĩ Byzantine đã mượn hình ảnh của các vị thần mạnh mẽ và uy quyền trong đền Pantheon La Mã để khắc họa Đức Chúa Jêsus. Vào khoảng thế kỷ thứ 6 xuất hiện tác phẩm “Christ Pantokrator”, miêu tả một nhân vật có râu và tóc dài ngang vai, rồi đến các tác phẩm nghệ thuật vẽ Đức Chúa Jêsus với vẻ đẹp lý tưởng trong bối cảnh của chủ nghĩa nhân văn vào thời kỳ Phục hưng. Văn hóa Phục hưng cũng gây ảnh hưởng đến việc hình tượng hóa hình ảnh của Đức Chúa Jêsus trong xã hội phương Tây vào thế kỷ 20. Điển hình là bức chân dung Đức Chúa Jêsus do họa sĩ thương mại người Mỹ Warner Sallman vẽ. Bức tranh này được sử dụng làm hình ảnh cho kính màu, lịch v.v... và rất được công chúng yêu thích.
“ Hình ảnh Đức Chúa Jêsus có râu và mái tóc dài xuất hiện từ thế kỷ thứ 4, chịu nhiều ảnh hưởng bởi biểu tượng của các vị thần Hy Lạp và La Mã, đặc biệt là thần Zeus toàn năng của Hy Lạp. Vào thời điểm đó bắt đầu xuất hiện hình ảnh Đức Chúa Jêsus ngồi trên ngai vàng trong bộ áo choàng dài (chẳng hạn như trong bức tranh khảm vào thế kỷ thứ 5 trên bàn thờ của nhà thờ Santa Pudenziana ở Rome), đôi khi có vầng hào quang quanh đầu. The long-haired, bearded image of Jesus that emerged beginning in the fourth century A.D. was influenced heavily by representations of Greek and Roman gods, particularly the all-powerful Greek god Zeus. At that point, Jesus started to appear in a long robe, seated on a throne (such as in the fifth-century mosaic on the altar of the Santa Pudenziana church in Rome), sometimes with a halo surrounding his head.
“ — Sarah Pruitt, "The Ongoing Mystery of Jesus's Face," HISTORY, Feb. 20. 2019.
이처럼 예수님의 장엄하고 신비한 외모, 후광이 비취는 이미지는 오랜 세월 고착화됐다. 그러나 사람들이 떠올리는 예수님의 전형적인 모습은 시대와 문화가 만들어낸 왜곡된 이미지에 가깝다.[16] 성경에 기록된 예수님의 외형과는 거리가 멀기 때문이다. 성경에는 마른땅의 줄기 같아서 고운 모양도 풍채도 없다고 묘사되어 있다.
Cứ thế, dáng vẻ uy nghi và thần bí của Đức Chúa Jêsus với hình ảnh hào quang tỏa sáng đã được mặc định trong suốt thời gian dài. Song, hình ảnh khuôn mẫu Đức Chúa Jêsus mà người ta nghĩ ra gần như là hình ảnh bị bóp méo, được tạo ra bởi thời đại và văn hóa. Bởi vì nó khác xa với hình dung của Đức Chúa Jêsus được ghi chép trong Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, Ngài được miêu tả như cái rễ ra từ đất khô, chẳng có tướng mạo hay hình dung đẹp đẽ.
Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cái chồi, như cái rễ ra từ đất khô. Người chẳng có hình dung, chẳng có sự đẹp đẽ; khi chúng ta thấy người, không có sự tốt đẹp cho chúng ta ưa thích được.
근본 전지전능하신 하나님이시지만 사람으로 오신 예수님은 외형적으로 평범한 이들과 다를 바 없었다. 육신적으로는 요셉과 마리아의 아들[17]이었으며, 목수라는 직업을 가졌다. 또한 예수님은 허기지면 음식을 드시고, 먼 길에 지치면 잠시 앉아 쉬기도 하시는 등 의식주와 일상 생활도 평범했다.[18][19][20] 오늘날 사람들은 성화(聖畵) 등에 거룩하게 묘사된 이미지를 보며 그리스도를 신앙하지만, 2000년 전 예수님은 보통 사람의 모습이었기에 이스라엘 백성들에게 배척당했다.[21] 예수님이 손을 씻지 않고 음식을 드신다거나 천대 받는 세리, 창기들과 함께하는 모습은 유대인들이 예수님을 구원자로 받아들이지 못한 요인이 되기도 했다.[22][23][24]
Dù vốn là Đức Chúa Trời toàn tri toàn năng, nhưng xét về ngoại hình, Đức Chúa Jêsus đã đến trong hình dáng loài người không khác gì với những người bình thường. Về phần xác thịt, Ngài là con trai của Giôsép và Mari, lại làm nghề thợ mộc. Hơn nữa, Đức Chúa Jêsus cũng có sinh hoạt thường nhật ăn mặc ở bình thường chẳng hạn như khi đói thì dùng bữa, còn khi mỏi mệt vì đi đường dài thì cũng ngồi nghỉ một lúc. Ngày nay, người ta xem thấy hình ảnh được miêu tả một cách rất thánh trên các bức thánh họa, nhưng Đức Chúa Jêsus 2000 năm trước đã bị đối nghịch bởi dân Ysơraên vì Ngài ở trong dáng vẻ của một người bình thường. Hình ảnh Đức Chúa Jêsus dùng bữa mà không rửa tay hoặc ở cùng với những người thâu thuế và phường đĩ điếm bị coi thường, điều đó cũng trở nên yếu tố khiến cho người Giuđa không thể tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chúa.
Những người chống đối Đấng Christ
2000년 전, 이스라엘은 로마제국의 식민지였다. 유대인들은 로마의 치하에서 벗어날 수 있는 유일한 탈출구로, 자신들을 구원해 줄 '메시아'를 간절히 염원했다.[25] 그러나 막상 메시아로 오신 예수님이 눈앞에 나타나자 그들은 '사람이 되어 자칭 하나님이라고 하느냐'며 배척했다.[26][27] 당시 유대인들이 기대했던 메시아의 모습은 로마의 압제에서 자신들을 구원해줄 초인적 힘을 가진 절대자였는데 예수님은 그들이 관념 속에 정형화해 놓은 모습에 부합하지 않았기 때문이다.
2000 năm trước, nước Ysơraên là thuộc địa của đế quốc La Mã. Người Giuđa đã tha thiết chờ đợi “Đấng Mêsi” đến cứu họ như một lối thoát duy nhất để được giải phóng khỏi ách thống trị của người La Mã. Thế nhưng, khi Đức Chúa Jêsus đến với tư cách là Đấng Mêsi và xuất hiện trước mắt họ, họ lại chối bỏ mà nói rằng “Ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời.” Vì hình ảnh của Đấng Mêsi mà những người Giuđa đương thời kỳ vọng là Đấng có quyền năng tuyệt đối để giải cứu họ khỏi sự áp bức của người La Mã, nhưng Đức Chúa Jêsus không phù hợp với hình ảnh mà họ đã tiêu chuẩn hóa theo quan niệm của mình.
“ Những người Giuđa chịu đủ mọi sự sỉ nhục bởi dân ngoại, nên trong lòng họ tràn đầy nỗi oán hận và căm thù. Hơn nữa, vì bị thấm đẫm bởi tư duy vật chất và thế tục nên họ không thể tưởng tượng về một Đấng Mêsi nghèo khổ, một Đấng Mêsi bị người đời ghét bỏ. Ngoại trừ các đấng tiên tri và người tiên kiến, hầu hết dân chúng đều mơ ước về một Đấng Mêsi giống như một chiến binh dũng mãnh. “ — (Storia di Cristo: Câu chuyện về Đấng Christ) Giovanni Pafini, Medici Media, 2014
결국 유대인들은 그토록 열망했던 메시아를 알아보지 못하여 배척하다 십자가에 못 박는 일까지 자행했다. 당대 유대인들과 종교 지도자들이 하늘만 쳐다보며 메시아의 강림을 기다릴 때 메시아는 이미 탄생하여 성경의 모든 예언을 이루어가셨다.[28]
Rốt cuộc, người Giuđa đã không nhìn biết Đấng Mêsi mà họ đã từng khao khát bấy lâu, nên họ đã chối bỏ và còn tự mình đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Trong khi người Giuđa và các nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời cứ mải nhìn lên trời và chờ đợi sự giáng lâm của Đấng Mêsi, thì Ngài đã sanh ra và làm ứng nghiệm hết thảy mọi lời tiên tri trong Kinh Thánh.
Những người tiếp nhận Đấng Christ
Sứ đồ Phaolô, người được các Cơ Đốc nhân ngày nay tôn làm thánh nhân, cũng đã được gọi là “kẻ làm đầu phe người Naxarét” vào 2000 năm trước.[29] Bởi vì Phaolô tin vào Đấng Christ đến trong hình dáng loài người. Không chỉ Phaolô, mà kể cả các sứ đồ như Giăng, Phierơ, Philíp v.v... và các thánh đồ Hội Thánh sơ khai đều giữ vững đức tin đối với Đức Chúa Jêsus cho dù phải chịu mọi sự bắt bớ.[30] Sứ đồ Giăng, một trong mười hai môn đồ của Đức Chúa Jêsus, đã ghi chép trong Kinh Thánh rằng Đức Chúa Trời, Đấng đã có từ lúc ban đầu, đã mặc lấy xác thịt và ở cùng chúng ta. Sứ đồ Phaolô bày tỏ rằng mặc dù Đức Chúa Jêsus đã xuất hiện trong “hình dáng loài người”, nhưng Ngài vốn là bản thể của Đức Chúa Trời.
Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời... Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.
Ngài vốn có hình (bản thể, bản dịch mới) Ðức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Ðức Chúa Trời là sự nên nắm giữ... Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.
Lý do các sứ đồ đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chúa là vì họ tin vào sự thật rằng Đức Chúa Jêsus - Đấng làm ứng nghiệm lời tiên tri Kinh Thánh chính là Đấng Cứu Chúa. Từ hàng trăm năm trước khi Đức Chúa Jêsus giáng sanh, Kinh Thánh Cựu Ước đã ghi chép những lời tiên tri rằng Đức Chúa Trời sẽ đến là “Người”. Chẳng hạn như lời tiên tri rằng Đấng Cứu Chúa sẽ chịu thai bởi thân thể của người nữ đồng trinh,[31][32] lời tiên tri rằng Đấng có gốc tích từ thời thái cổ, tức là Đức Chúa Trời sẽ giáng sanh tại Bếtlêhem,[33][34] lời tiên tri về vua của Ysơraên hay vua của Siôn (Đức Chúa Trời) sẽ cưỡi lừa con mà vào thành Giêrusalem.[35][36] Trong Kinh Thánh có ghi chép rằng Đức Chúa Jêsus là “Emmanuên”. Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời đến trong xác thịt để cứu rỗi dân mình và Ngài sẽ ở với họ.[37] Theo lời tiên tri này, Đức Chúa Jêsus đã giáng sanh trong hình ảnh loài người, và sống cuộc đời Tin Lành để cứu rỗi nhân loại. Ngài đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri Kinh Thánh cho đến tận khi qua đời trên thập tự giá.
Đức Chúa Jêsus Tái Lâm đến lần nữa trong xác thịt

Lý do chính khiến Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt mà đến là vì sự cứu rỗi nhân loại.[38] Kinh Thánh ghi chép rằng tiền công tội lỗi của nhân loại là sự chết, và ân điển của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời bởi Đức Chúa Jêsus.[39] Những tội nhân phải trả giá cho sự chết không có cách nào để tự cứu rỗi mình, nên Đức Chúa Trời, là Đấng không có tội lỗi gì,[40] đã gánh vác thay tội lỗi của nhân loại và chịu chết thế trên thập tự giá. Chỉ bởi cách đó thì nhân loại mới được cứu chuộc. Trước ngày hy sinh trên thập tự giá, Đức Chúa Jêsus đã lập ra Lễ Vượt Qua giao ước mới bằng bánh và rượu nho tượng trưng cho thịt và huyết của Ngài, cùng ban cho sự tha tội và sự sống đời đời. Rồi ngày hôm sau, đích thân Ngài đã chịu đựng sự hy sinh xẻ thịt và đổ huyết trên thập tự giá để hoàn thành giao ước Ngài đã lập ra vào Lễ Vượt Qua.
Trong sách Michê của Kinh Thánh Cựu Ước đã tiên rằng Đức Chúa Trời sẽ dạy dỗ về đường lối lẽ thật của Ngài vào những ngày sau rốt.[41] Nghĩa là, Đức Chúa Jêsus sẽ lại đến lần thứ hai và dạy dỗ về lẽ thật dẫn đến sự cứu rỗi. Lẽ thật mà Đức Chúa Jêsus đã lập ra vì sự cứu rỗi chính là Lễ Vượt Qua giao ước mới. Thế nhưng sau thời đại Hội Thánh sơ khai, Lễ Vượt Qua giao ước mới đã bị xóa bỏ tại Công đồng Nicaea vào năm 325 SCN. Con đường của sự cứu rỗi mà Ngài mở ra vào thời Sơ Lâm đã bị biến mất. Vì vậy, Đấng Christ sẽ đến lần thứ hai để khôi phục lẽ thật sự sống và cứu rỗi nhân loại.
Cũng vậy, Ðấng Christ đã dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người; Ngài lại sẽ hiện ra lần thứ hai, không phải để cất tội đi nữa, nhưng để ban sự cứu rỗi cho kẻ chờ đợi Ngài.
Chúng ta có thể tìm thấy phương pháp nhận biết Đấng Christ Tái Lâm, Đấng đến trong hình dáng loài người thông qua lịch sử Hội Thánh sơ khai vào 2000 năm trước. Các nhà lãnh đạo tôn giáo nhìn vào mặt xác thịt của Đức Chúa Jêsus lúc bấy giờ thì đã đối nghịch với Đức Chúa Jêsus - Đấng Cứu Chúa. Thế nhưng các sứ đồ và các thánh đồ nhìn trông lời tiên tri Kinh Thánh và sự ứng nghiệm thì đã tiếp nhận Đấng Cứu Chúa một cách đúng đắn. Vào thời đại này, con đường để chúng ta nhìn biết Đấng Christ Tái Lâm duy chỉ là Kinh Thánh mà thôi. Vì Kinh Thánh là sách duy nhất làm chứng về Đấng Cứu Chúa.[42] Vào đương thời Sơ Lâm, Đức Chúa Jêsus đã làm chứng Ngài là Đấng Cứu Chúa thông qua Kinh Thánh. Kể cả khi Giăng Báptít hỏi rằng “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?”, Ngài cũng đã cho nghe lời tiên tri trong Kinh Thánh,[43][44] và khi hai môn đồ trên đường đến làng Emmaút không nhận ra Ngài, Đức Chúa Jêsus cũng đã làm chứng về Ngài thông qua Kinh Thánh.[45] Kinh Thánh đã tiên tri Đấng Christ tái lâm vào lúc nào, với hình dáng nào và mang theo dấu chứng gì rồi. Trong số đó, dấu chứng cốt lõi nhất chính là Lễ Vượt Qua giao ước mới. Đấng tiên tri Êsai đã tiên tri rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho tiệc yến với rượu nho lâu năm, và Ngài sẽ nuốt sự chết đến đời đời.
Ðức Giêhôva vạn quân sẽ ban cho mọi dân tộc, tại trên núi nầy, một tiệc yến đồ béo, một diên rượu ngon (aged wine: rượu nho lâu năm, bản dịch NIV), đồ béo có tủy, rượu ngon lọc sạch... Ngài đã nuốt sự chết đến đời đời. Chúa Giêhôva sẽ lau nước mắt khỏi mọi mặt, và trừ bỏ sự xấu hổ của dân Ngài khỏi cả thế gian; vì Ðức Giêhôva đã phán vậy. Trong ngày đó, người ta sẽ nói rằng: Kìa, ấy là Ðức Chúa Trời chúng ta.
Trong Kinh Thánh, rượu nho khiến cho sự chết bị nuốt đi, tức là ban cho sự sống đời đời duy chỉ là rượu nho của Lễ Vượt Qua giao ước mới mà thôi. Đấng khôi phục lại Lễ Vượt Qua giao ước mới đã bị biến mất khoảng 1600 năm kể từ thời Sơ Lâm chính là Đức Chúa Trời - Đức Chúa Jêsus Tái Lâm. Đấng đã đến trong xác thịt và khôi phục lại giao ước mới theo mọi lời tiên tri trong Kinh Thánh ấy chính là Đấng An Xang Hồng.[46]
Xem thêm
- Đấng An Xang Hồng
- Đấng Christ
- Đấng Mêsi
- Đức Chúa Jêsus Christ
- Cuộc đời của Đức Chúa Jêsus
- Công việc chủ yếu của Đức Chúa Jêsus Christ
- Lời tiên tri Kinh Thánh về Đức Chúa Jêsus
- Phép lạ của Đức Chúa Jêsus
- Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus Christ
- Hình dáng và hoàn cảnh sinh hoạt của Ðức Chúa Jêsus
- Lời ví dụ của Đức Chúa Jêsus
- Bữa ăn tối cuối cùng
- Khổ nạn thập tự giá
- Sự phục sinh của Đức Chúa Jêsus
- Sự thăng thiên của Đức Chúa Jêsus
- Hình ảnh tái lâm của Đức Chúa Jêsus
- Thời kỳ tái lâm của Đức Chúa Jêsus
- Địa điểm tái lâm của Đức Chúa Jêsus
- Danh mới trên hòn sỏi trắng (Danh mới của Đức Chúa Jêsus)
- Chồi của vua Đavít
- Lời tiên tri về ngôi vua Đavít
- Sứ mệnh của Êli
- Mênchixêđéc
- Ấn của Đức Chúa Trời
- Siôn
Chú thích
- ↑ “기독교는 하나님의 성육신을 믿는 종교이다”. 하나님의교회 세계복음선교협회 홈페이지.
기독교의 중심사상은 하나님께서 육체로 오셨다는 믿음이며 기독교는 하나님의 성육신을 절대적으로 믿는 종교입니다.
- ↑ “세계 선교 통계(2021)”. 한국선교연구원.
세계 기독교 인구 비율 32.3%
- ↑ “디모데전서 2:5”.
하나님은 한 분이시요 또 하나님과 사람 사이에 중보도 한 분이시니 곧 사람이신 그리스도 예수라
- ↑ “로마서 9:5”.
조상들도 저희 것이요 육신으로 하면 그리스도가 저희에게서 나셨으니 저는 만물 위에 계셔 세세에 찬양을 받으실 하나님이시니라 아멘
- ↑ “히브리서 9:28”.
이와 같이 그리스도도 많은 사람의 죄를 담당하시려고 단번에 드리신 바 되셨고 구원에 이르게 하기 위하여 죄와 상관 없이 자기를 바라는 자들에게 두 번째 나타나시리라
- ↑ "Christos," Bible Hub
- ↑ "Jesus", Encyclopaedia Britannica
- ↑ 알리스터 맥그라스, 《기독교의 역사》, 박규태 역, 포이에마, 2016, 23쪽,
'메시아'라는 히브리어는 본디 '기름부음 받은 자'를 뜻하며, 이 개념을 그리스어로 번역한 말이 '크리스토스'다.
- ↑ “이사야 9:6”.
이는 한 아기가 우리에게 났고 한 아들을 우리에게 주신바 되었는데 그 어깨에는 정사를 메었고 그 이름은 기묘자라, 모사라, 전능하신 하나님이라, 영존하시는 아버지라, 평강의 왕이라 할 것임이라
- ↑ “이사야 7:14”.
그러므로 주께서 친히 징조로 너희에게 주실 것이라 보라 처녀가 잉태하여 아들을 낳을 것이요 그 이름을 임마누엘이라 하리라
- ↑ 김주철, "제1장 비밀 중의 비밀", 《아버지 하나님, 어머니 하나님》, 멜기세덱출판사, 2020, 11-12쪽,
하나님은 우리가 믿는 그대로 전지전능하신 하나님이시기에, 전지전능하신 그 모습 그대로 오실 수 있을 뿐만 아니라 사람의 모습으로 오실 수도 있습니다.
- ↑ 안상홍, "제12장 성삼위일체에 대하여", 《하나님의 비밀과 생명수의 샘》, 멜기세덱출판사, 2016, 85쪽,
하나님은 영으로만 계시는 것이 아니라 육체로도 계시며 때로는 길 가는 행인으로도 나타나신다.
- ↑ Sarah Pruitt, "The Ongoing Mystery of Jesus's Face," HISTORY, Feb. 20. 2019.,
For centuries, the most common image of Jesus Christ, at least in Western cultures, has been that of a bearded, fair-skinned man with long, wavy, light brown or blond hair and (often) blue eyes.
- ↑ “명화 속 예수의 진짜 얼굴은?”. 한국일보. 2020. 11. 26.
인간적 가치를 중시한 르네상스 휴머니즘을 배경으로, 미켈란젤로의 '최후의 심판'의 남성미가 넘치는 근육질 예수, 레오나르도의 '최후의 만찬'의 우아하고 이상적 아름다움을 지닌 예수가 등장한 것이다. 여전히 르네상스 미술가들의 예술적 영감의 근원도 고대 그리스 로마였다. 예외도 있었지만, 예수 역시 고대신화 속 올림포스 신들의 조각상을 본뜬 수려한 남성의 모습으로 표현되었다. 여기에다 당대 유럽인 자신들의 외모가 일부 투영된 것은 물론이다. 서구에서 르네상스 문화예술은 막강한 영향력을 끼쳤기 때문에, 르네상스 미술작품 속 예수의 이미지 역시 이후 미술사에 면면히 이어졌다.
Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|date=
(trợ giúp) - ↑ Sarah Pruitt, "The Ongoing Mystery of Jesus's Face," HISTORY, Feb. 20. 2019.,
The long-haired, bearded image of Jesus that emerged beginning in the fourth century A.D. was influenced heavily by representations of Greek and Roman gods, particularly the all-powerful Greek god Zeus. At that point, Jesus started to appear in a long robe, seated on a throne (such as in the fifth-century mosaic on the altar of the Santa Pudenziana church in Rome), sometimes with a halo surrounding his head.
- ↑ “명화 속 예수의 진짜 얼굴은?”. 한국일보. 2020. 11. 26.
사람들이 떠올리는 예수의 전형적인 모습은 우리가 원하고 보고 싶은 형상이며, 이것이 미술에 반영되어 왜곡된 이미지로 만들어진 것에 불과하다.
Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|date=
(trợ giúp) - ↑ “요한복음 6:42”.
가로되 이는 요셉의 아들 예수가 아니냐 그 부모를 우리가 아는데 제가 지금 어찌하여 하늘로서 내려왔다 하느냐
- ↑ “누가복음 24:42-43”.
이에 구운 생선 한 토막을 드리매 받으사 그 앞에서 잡수시더라
- ↑ “요한복음 4:6”.
거기 또 야곱의 우물이 있더라 예수께서 행로에 곤하여 우물 곁에 그대로 앉으시니 때가 제육시쯤 되었더라
- ↑ 프레드 재스펠, "기독론1: 그리스도의 인격", 《한 권으로 읽는 워필드 신학》, 김찬영 역, 부흥과개혁사, 2014, 409쪽,
주 예수님은 굶주리셨고, 목마르셨으며, 육체적 고통을 느끼셨고, 즐거워하셨고, 울고 때로는 통곡하셨고, 탄식하셨고 신음하셨고, 분노하셨고, 맹렬히 책망하셨고, 기뻐하셨다.
- ↑ “마가복음 6:3”.
이 사람이 마리아의 아들 목수가 아니냐 야고보와 요셉과 유다와 시몬의 형제가 아니냐 그 누이들이 우리와 함께 여기 있지 아니하냐 하고 예수를 배척한지라
- ↑ “누가복음 11:38”.
잡수시기 전에 손 씻지 아니하심을 이 바리새인이 보고 이상히 여기는지라
- ↑ “마태복음 11:18-19”.
요한이 와서 먹지도 않고 마시지도 아니하매 저희가 말하기를 귀신이 들렸다 하더니 인자는 와서 먹고 마시매 말하기를 보라 먹기를 탐하고 포도주를 즐기는 사람이요 세리와 죄인의 친구로다 하니 지혜는 그 행한 일로 인하여 옳다 함을 얻느니라
- ↑ “누가복음 15:1-2”.
모든 세리와 죄인들이 말씀을 들으러 가까이 나아오니 바리새인과 서기관들이 원망하여 가로되 이 사람이 죄인을 영접하고 음식을 같이 먹는다 하더라
- ↑ 오강남, "그리스도교의 발생", 《오강남의 그리스도교 이야기》, 현암사, 2013, 34쪽,
유대인들 사이에서는 그들이 오랫동안 기다리던 메시아가 출현해서 로마 제국을 뒤집어엎고 새로운 세상을 열 것이라는 이른바 '메시아 대망'의 믿음이 팽배해 있었다.
- ↑ “요한복음 10:33”.
유대인들이 대답하되 선한 일을 인하여 우리가 너를 돌로 치려는 것이 아니라 참람함을 인함이니 네가 사람이 되어 자칭 하나님이라 함이로라
- ↑ 김주철, "제2장 사람이신 그리스도 예수", 《아버지 하나님, 어머니 하나님》, 멜기세덱출판사, 2020, 21쪽,
사람이 되어 자칭 하나님이라고 한다는 이유로 당대 종교 지도자들은 그리스도를 핍박했습니다.
- ↑ An Xang Hồng, Chương 11 Về Đức Chúa Jêsus, "Sự Mầu Nhiệm của Đức Chúa Trời và Ngọn Suối Nước Sự Sống", NXB Mênchixêđéc, 2016, trang 76-77,
Ngay cả sau khi Jêsus đã sơ lâm rồi mà người Giuđa nói rằng Đấng Mêsi vẫn chưa đến, và họ cứ nhướng mắt lên trời mà trông đợi Ngài giáng thế. Họ cứ tin rằng đấng tiên tri Êli từ trên trời sẽ xuống trước với xe lửa để mở đường cho Ðấng Mêsi giáng thế, rồi Ðấng Mêsi mới giáng xuống với muôn vàn thiên sứ trên áng mây trên trời như lời tiên tri của Malachi 3:1 và 4:5-6. ... Trong khi người Pharisi hay thầy tế lễ không nhận thấy ý định của Ngài, thì Êli và Ðấng Mêsi được sanh ra với tư cách là con trẻ. Vả lại, cũng trong khi họ không hề hiểu biết sự sanh ra ấy, sau khi trưởng thành, Êli đã kêu lên tiếng tại bờ sông Giôđanh, và Ðấng Mêsi thì đã làm chứng một cách đột nhiên tại đền thờ, là nơi họ nhóm hiệp lại.
- ↑ “Công Vụ Các Sứ Đồ 24:5”.
Vậy, chúng tôi đã gặp người nầy, như là đồ ôn dịch, đã gây loạn trong hết thảy người Giuđa trên cả thế giới: nó làm đầu phe người Naxarét.
- ↑ “Giăng 15:20-21”.
Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Ðầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi. Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Đấng đã sai ta đến.
- ↑ “Êsai 7:14”.
Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Emmanuên.
- ↑ “Mathiơ 1:18-23”.
Vả, sự giáng sanh của Ðức Chúa Jêsus Christ đã xảy ra như vầy: Khi Mari, mẹ Ngài, đã hứa gả cho Giôsép, song chưa ăn ở cùng nhau, thì người đã chịu thai bởi Ðức Thánh Linh. Giôsép, chồng người, là người có nghĩa, chẳng muốn cho người mang xấu, bèn toan đem để nhẹm. Song đang ngẫm nghĩ về việc ấy, thì thiên sứ của Chúa hiện đến cùng Giôsép trong giấc chiêm bao, mà phán rằng: Hỡi Giôsép, con cháu Ðavít, ngươi chớ ngại lấy Mari làm vợ, vì con mà người chịu thai đó là bởi Ðức Thánh Linh. Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là JÊSUS, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội. Mọi việc đã xảy ra như vậy, để cho ứng nghiệm lời Chúa đã dùng đấng tiên tri mà phán rằng: Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Emmanuên; nghĩa là: Ðức Chúa Trời ở cùng chúng ta.
- ↑ “Michê 5:2”.
Hỡi Bếtlêhem Éprata, ngươi ở trong hàng ngàn Giuđa là nhỏ lắm, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Ðấng cai trị trong Ysơraên; gốc tích của Ngài từ đời xưa, từ trước vô cùng.
- ↑ “Mathiơ 2:1-6”.
Khi Đức Chúa Jêsus đã sanh tại thành Bếtlêhem, xứ Giuđê, đang đời vua Hêrốt, có mấy thầy bác sĩ ở đông phương đến thành Giêrusalem, mà hỏi rằng: Vua dân Giuđa mới sanh tại đâu? Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông phương, nên đến đặng thờ lạy Ngài. Nghe tin ấy, vua Hêrốt cùng cả thành Giêrusalem đều bối rối. Vua bèn nhóm các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo trong dân lại mà tra hỏi rằng Đấng Christ phải sanh tại đâu. Tâu rằng: Tại Bếtlêhem, xứ Giuđê; vì có lời của đấng tiên tri chép như vầy: Hỡi Bếtlêhem, đất Giuđa! Thật ngươi chẳng phải kém gì các thành lớn của xứ Giuđa đâu, Vì từ ngươi sẽ ra một tướng, Là Đấng chăn dân Ysơraên, tức dân ta.
- ↑ “Xachari 9:9”.
Hỡi con gái Siôn, hãy mừng rỡ cả thể! Hỡi con gái Giêrusalem, hãy trổi tiếng reo vui! Nầy, Vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài là công bình và ban sự cứu rỗi, nhu mì và cỡi lừa, tức là con của lừa cái.
- ↑ “Mathiơ 21:2-11”.
mà phán rằng: Hãy đi đến làng ở trước mặt các ngươi, tức thì sẽ gặp một con lừa cái bị cột, với một con lừa con; hãy mở ra và dắt đến cho ta... Hai người dắt lừa cái và lừa con, trải áo mình trên lưng lừa, và nâng Ngài cỡi lên... Đoàn dân đi trước và theo sau đều kêu lên rằng: Hôsana con vua Đavít! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hôsana ở trên nơi rất cao!
- ↑ An Xang Hồng, Chương 12 Về Ba Vị Thánh Nhất Thể, "Sự Mầu Nhiệm của Đức Chúa Trời và Ngọn Suối Nước Sự Sống", NXB Mênchixêđéc, 2016, trang 89,
Cả tên “Emmanuên” lẫn danh “Jêsus” đều có nghĩa là “Thánh Linh Ðức Chúa Trời sẽ mặc lấy xác thịt mà đến, cứu dân Ngài ra khỏi tội và ở cùng họ.
- ↑ “Giăng 3:16”.
Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
- ↑ “Rôma 6:23”.
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.
- ↑ “I Giăng 3:5”.
Vả, các con biết Ðức Chúa Jêsus Christ đã hiện ra để cất tội lỗi đi, và biết trong Ngài không có tội lỗi.
- ↑ “Michê 4:1-2”.
Xảy ra trong những ngày sau rốt, núi của nhà Đức Giêhôva sẽ lập lên trên chót các núi, và sẽ được nhắc cao lên hơn các đồi. Các dân sẽ chảy về đó; và nhiều nước sẽ đi đến đó, mà rằng: Hãy đến, chúng ta hãy lên núi của Đức Giêhôva, nơi nhà của Đức Chúa Trời Giacốp! Ngài sẽ dạy chúng ta về đường lối Ngài, và chúng ta sẽ đi trong các nẻo Ngài. Vì luật pháp sẽ ra từ Siôn, lời của Đức Giêhôva từ Giêrusalem.
- ↑ “Giăng 5:39”.
Các ngươi dò xem Kinh thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời: Ấy là Kinh thánh làm chứng về ta vậy.
- ↑ Kim Joo Cheol, Chương 4 Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?, "Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời Mẹ", NXB Mênchixêđéc, 2020, trang 42,
Khi Giăng Báptít ở trong ngục và đang gần kề với cái chết, người đã sai môn đồ mình đến xác minh xem thật sự Ðấng Christ đến theo lời tiên tri có phải là Ðức Chúa Jêsus không. Khi bị hỏi rằng “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng?” thì Ðức Chúa Jêsus cho nghe một phần lời tiên tri của Êsai.
- ↑ “Mathiơ 11:2-5”.
Khi Giăng ở trong ngục nghe nói về các công việc của Đấng Christ, thì sai môn đồ mình đến thưa cùng Ngài rằng: Thầy có phải là Đấng phải đến, hay là chúng tôi còn phải đợi đấng khác chăng? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy về, thuật lại cùng Giăng những điều các ngươi nghe và thấy: Kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, kẻ khó khăn được nghe giảng tin lành.
- ↑ “Luca 24:27”.
“Ðoạn, Ngài bắt đầu từ Môise rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh.
- ↑ “[500 năm sau Cải cách Luther - Lẽ thật Kinh Thánh Hội Thánh của Đức Chúa Trời] Tin điều gì, thực tiễn điều gì?”. Monthly JoongAng. tháng 12 năm 2017.
“Đấng Christ” nghĩa là Đức Chúa Trời đến trong xác thịt để cứu rỗi nhân loại. Các sứ đồ vừa bày tỏ rằng “Đức Chúa Jêsus đến là người”, vừa nhấn mạnh rằng phải tin vào Đức Chúa Trời đến trong xác thịt. Giống như vậy, Hội Thánh của Đức Chúa Trời ngày nay cũng nói rằng Đức Chúa Trời toàn tri toàn năng có thể đến trái đất này với hình ảnh loài người nhiều bao nhiêu cũng được, và phải tin vào Đức Chúa Trời đến trong hình ảnh loài người theo lời tiên tri Kinh Thánh thì mới nhận được sự cứu rỗi.