Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lễ Vượt Qua”

Từ Từ điển tri thức Hội Thánh của Đức Chúa Trời
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Ngocanh63 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Ngocanh63 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4: Dòng 4:
|Tên gọi = 逾越節, Passover
|Tên gọi = 逾越節, Passover
|이명 =  
|이명 =  
|날짜 = 성력 1월 14일 저녁
|Ngày tháng = 성력 1월 14일 저녁
|유래 = 애굽에서 해방
|Khởi nguyên = 애굽에서 해방
|구약의식 = 양의 피를 뿌리고 고기를 불에 구워 먹음
|Nghi thức Cựu Ước = 양의 피를 뿌리고 고기를 불에 구워 먹음
|신약의식 = 세족식 후 예수님의 살과 피를 상징하는 떡과 포도주를 먹고 마심
|Nghi thức Tân Ước = 세족식 후 예수님의 살과 피를 상징하는 떡과 포도주를 먹고 마심
|예언성취 = 죄악 세상에서 해방
|Ứng nghiệm lời tiên tri = 죄악 세상에서 해방
|축복 = 죄 사함, 영생, 재앙에서 보호, 첫째 계명 완수
|Phước lành = 죄 사함, 영생, 재앙에서 보호, 첫째 계명 완수
}}
}}
'''Lễ Vượt Qua''' (Passover) là lễ trọng thể đầu tiên trong 3 kỳ 7 lễ trọng thể được ghi chép trong [[Kinh Thánh]]. Được giữ vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch, rơi vào khoảng tháng 3 đến tháng 4 theo [https://www.britannica.com/topic/Gregorian-calendar lịch Gregory] (dương lịch). Lễ Vượt Qua thuộc vào kỳ [[Lễ Bánh Không Men]], tức là kỳ 1 khi phân loại 7 lễ trọng thể thành 3 kỳ ([[Lễ Bánh Không Men]], [[Lễ Bảy Tuần Lễ]], [[Lễ Lều Tạm]]).
'''Lễ Vượt Qua''' (Passover) là lễ trọng thể đầu tiên trong 3 kỳ 7 lễ trọng thể được ghi chép trong [[Kinh Thánh]]. Được giữ vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch, rơi vào khoảng tháng 3 đến tháng 4 theo [https://www.britannica.com/topic/Gregorian-calendar lịch Gregory] (dương lịch). Lễ Vượt Qua thuộc vào kỳ [[Lễ Bánh Không Men]], tức là kỳ 1 khi phân loại 7 lễ trọng thể thành 3 kỳ ([[Lễ Bánh Không Men]], [[Lễ Bảy Tuần Lễ]], [[Lễ Lều Tạm]]).

Phiên bản lúc 05:46, ngày 13 tháng 9 năm 2023

유월절 양의 피를 바르는 이스라엘 민족
Tên gọi逾越節, Passover
Ngày tháng성력 1월 14일 저녁
Khởi nguyên애굽에서 해방
Nghi thức Cựu Ước양의 피를 뿌리고 고기를 불에 구워 먹음
Nghi thức Tân Ước세족식 후 예수님의 살과 피를 상징하는 떡과 포도주를 먹고 마심
Ứng nghiệm lời tiên tri죄악 세상에서 해방
Phước lành죄 사함, 영생, 재앙에서 보호, 첫째 계명 완수

Lễ Vượt Qua (Passover) là lễ trọng thể đầu tiên trong 3 kỳ 7 lễ trọng thể được ghi chép trong Kinh Thánh. Được giữ vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch, rơi vào khoảng tháng 3 đến tháng 4 theo lịch Gregory (dương lịch). Lễ Vượt Qua thuộc vào kỳ Lễ Bánh Không Men, tức là kỳ 1 khi phân loại 7 lễ trọng thể thành 3 kỳ (Lễ Bánh Không Men, Lễ Bảy Tuần Lễ, Lễ Lều Tạm).

Lễ Vượt Qua là lẽ thật cốt lõi của giao ước mới do Đức Chúa Trời lập nên vì sự cứu rỗi nhân loại. Vào chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch, Đức Chúa Jêsus Christ đã giữ Lễ Vượt Qua cùng với các môn đồ bằng bánh và rượu nho tượng trưng cho thịt và huyết của Ngài, bởi đó Ngài lập ra giao ước mới. Người dân Ysơraên thời đại Cựu Ước đã giữ Lễ Vượt Qua rồi được giải phóng khỏi xứ Êdíptô (Ai Cập) và đi vào xứ Canaan. Cũng vậy, các thánh đồ thời đại Tân Ước giữ Lễ Vượt Qua giao ước mới để nhận được sự sống đời đời, được giải phóng khỏi thế gian tội ác rồi đi vào Nước Thiên Đàng.

Khởi nguyên và ý nghĩa của Lễ Vượt Qua

Khởi nguyên và ý nghĩa

Lễ Vượt Qua bắt nguồn từ lịch sử người dân Ysơraên đang làm nô lệ trong xứ Êdíptô đã được bảo hộ khỏi tai vạ và được giải phóng nhờ giữ Lễ Vượt Qua. Ngay cả tên gọi của Lễ Vượt Qua có nghĩa là “Vượt qua tai vạ” cũng bắt nguồn từ lịch sử này. Trong tiếng Hán gọi là “Du Việt (Du 逾: quá, vượt ra ngoài, việt 越: vượt quá)” có nghĩa là “vượt qua”. Theo tiếng Hêbơrơ gọi Lễ Vượt Qua là Pesach (פֶּסַח),[1] được phát sinh từ động từ Pasach (פָּסַח)[2] có nghĩa là “đi qua” hoặc “vượt qua”. Còn trong tiếng Hy Lạp là Pasca (πασχα), tiếng Anh là Passover. Tất cả đều mang ý nghĩa là “vượt qua (tai vạ)”.

Cách viết Lễ Vượt Qua theo từng ngôn ngữ

Lễ Vượt Qua được đề cập đến trong Xuất Êdíptô Ký được viết theo từng ngôn ngữ như sau.

Ngôn ngữ Biểu thị
Tiếng Hêbơrơ Pesach (פֶּסַח)
Tiếng Gờréc Pasca (πασχα)
Tiếng Hàn 유월절 (Một số bản dịch là 과월절)
Tiếng Anh Passover
Tiếng Tây Ban Nha Pascua
Tiếng Hà Lan het Joodse Paasfeest
Tiếng Na Uy påske
Tiếng Đức Pạssah•fest
Tiếng Latinh Pascha
Tiếng Nga еврейская пасха
Tiếng Romania Pesah
Tiếng Mông Cổ Дээгүүр өнгөрөх баяр
Tiếng Swahili Pasaka ya Kiyahudi
Tiếng Thụy Điển påskhögtid
Tiếng Ukraine Песах
Tiếng Ý pasqua ebraica
Tiếng Indonesia Paskah
Tiếng Nhật 過越祭 (すぎこしさい)
Tiếng Trung (giản thể) 逾越节
Tiếng Cộng Hòa Séc pesach
Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Fısıh Bayramı, Hamursuz Bayramı
Tiếng Pherơsơ (Ba Tư) فصح[fesh]
Tiếng Bồ Đào Nha páscoa
Tiếng Ba Lan Pascha (święto w judaizmie)
Tiếng Pháp Pâque
Tiếng Phần Lan pääsiäinen
Tiếng Hungary Páska

Lễ Vượt Qua thời đại Cựu Ước

Nghi thức

Bắt chiên đực giáp niên, rồi quay trên lửa và ăn với bánh không men cùng rau đắng vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch. Thịt chiên không được để đến sáng mai. Không được bẻ gãy xương của chiên con Lễ Vượt Qua.[3][4][5]

Lịch sử Lễ Vượt Qua vào thời đại Cựu Ước

  • Xuất Êdíptô
Dân Ysơraên được giải phóng khỏi xứ Êdíptô sau khi giữ Lễ Vượt Qua.

Lễ Vượt Qua được giữ lần đầu tiên vào thời đại Môise khoảng thế kỷ 15 TCN. Đức Chúa Trời đã giáng mười tai vạ xuống xứ Êdíptô nhằm giải phóng người dân Ysơraên khỏi sinh hoạt nô lệ trong xứ Êdíptô suốt 400 năm. Trong đó, Ngài đã khiến dân Ysơraên giữ Lễ Vượt Qua trước khi giáng xuống tai vạ thứ mười, là tai vạ giết chết các con đầu lòng.

... ấy là lễ Vượt qua của Ðức Giêhôva. Ðêm đó ta sẽ đi qua xứ Êdíptô, hành hại mọi con đầu lòng xứ Êdíptô, từ người ta cho đến súc vật; ta sẽ xét đoán các thần của xứ Êdíptô; ta là Ðức Giêhôva. Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Êdíptô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi. Các ngươi hãy ghi ngày đó làm kỷ niệm; trải các đời hãy giữ làm một lễ cho Ðức Giêhôva, tức là một lễ lập ra đời đời.

- Xuất Êdíptô Ký 12:11-14

Vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch, dân Ysơraên bắt chiên đực giáp niên không tì vết, lấy huyết nó bôi lên hai cây cột và mày cửa nhà, rồi ăn thịt chiên quay trên lửa.[6] Trong đêm Lễ Vượt Qua, tai vạ đã giáng xuống giết chết hết thảy mọi con đầu lòng trong nhà của người Êdíptô. Từ con trưởng của Pharaôn cho đến con trưởng của người bị tù, kể cả con đầu lòng của súc vật đều chết, và có tiếng than khóc lớn ở Êdíptô.[7] Còn người dân Ysơraên giữ Lễ Vượt Qua thì được bảo hộ khỏi tai ương theo lời hứa của Đức Chúa Trời và không có nhà nào bị chết cả. Ngày hôm sau, người dân Ysơraên ra khỏi Êdíptô trong niềm vui được tự do và giải phóng, họ khởi hành hướng đến Canaan vùng đất hứa.

  • Thời đại đồng vắng

Sau khi được giải phóng khỏi xứ Êdíptô, người dân Ysơraên hoàn thành công việc dựng nên đền tạm vào ngày 1 tháng 1 năm sau,[8] và giữ Lễ Vượt Qua lần thứ hai vào ngày 14 tháng đó trong đồng vắng Sinai.[9] Đối với những người không thể giữ Lễ Vượt Qua do bị ô uế bởi xác chết hoặc mắc đi xa, Đức Chúa Trời đã cho họ giữ Lễ Vượt Qua theo cùng một lệ định đồng nhất vào buổi chiều tối ngày 14 tháng 2. Thêm vào đó, Ngài cảnh báo rằng người dân của Đức Chúa Trời nhất định phải giữ Lễ Vượt Qua, người nào không giữ Lễ Vượt Qua sẽ bị truất khỏi vòng dân sự.[10]

Tuy nhiên, trong Kinh Thánh không có ghi chép nào cho thấy dân Ysơraên đã giữ Lễ Vượt Qua trong suốt 38 năm đi trên đồng vắng sau khi giữ Lễ Vượt Qua vào năm thứ hai. Đến cuối thời đại đồng vắng, Đức Chúa Trời phán dặn dân Ysơraên phải làm phép cắt bì ngay trước khi vượt qua sông Giôđanh để tiến vào Giêricô. Ấy là vì hết thảy mọi người nam trên 20 tuổi ra khỏi xứ Êdíptô đều đã chết trong đồng vắng, ngoại trừ GiôsuêCalép,[11] còn những người sinh ra trong đồng vắng vẫn chưa chịu phép cắt bì.[12] Vì duy chỉ những người chịu phép cắt bì mới được giữ Lễ Vượt Qua, nên việc họ không chịu phép cắt bì có nghĩa là họ đã không giữ Lễ Vượt Qua trong suốt thời gian đó.[13] Sau khi chịu phép cắt bì và giữ Lễ Vượt Qua tại đồng bằng Giêricô, dân Ysơraên đã tiến vào xứ Canaan trong năm đó.[14]

  • Thời vua Êxêchia

Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử quyền năng của Đức Chúa Trời được tỏ ra bởi Lễ Vượt Qua vào thời đại vua Êxêchia, khoảng 800 năm sau thời đại Môise. Êxêchia là vua thứ 13 của vương quốc Nam Giuđa. Đương thời, nước Ysơraên đã bị phân chia thành vương quốc Nam Giuđa và vương quốc Bắc Ysơraên.

Vua Êxêchia ngay khi lên ngôi đã quyết định giữ Lễ Vượt Qua với tấm lòng mong muốn quốc gia được bình ổn và được nhận sự bảo hộ của Đức Chúa Trời. Êxêchia đã sai các trạm đến toàn lãnh thổ Nam Giuđa và Bắc Ysơraên để rao truyền tin tức hãy trở lên Giêrusalem đặng giữ Lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, sau khi vương quốc bị phân chia, hầu như người dân Bắc Ysơraên đã không hề giữ Lễ Vượt Qua trong suốt 250 năm, nên họ đã chê cười và nhạo báng các trạm đưa tin. Rốt cuộc, chỉ người dân Nam Giuđa đã giữ Lễ Vượt Qua cùng một số người dân Bắc Ysơraên đã đến Giêrusalem.[15] Sau khi giữ Lễ Vượt Qua, người dân phá hủy bàn thờ dâng tế lễ cho hình tượng và thần khác mà họ đã từng hầu việc bấy lâu nay.[16]

Ba năm sau, Asiri (Assyria), một cường quốc hùng mạnh lúc bấy giờ, đã xâm lược Bắc Ysơraên. Họ bao vây thủ đô Samari và chiếm lấy chỉ trong vòng 3 năm vây hãm. Bắc Ysơraên, nơi không giữ Lễ Vượt qua, đã bị tiêu diệt hoàn toàn vào khoảng năm 721 TCN.[17] Kinh Thánh giải thích về nguyên nhân sâu xa khiến Bắc Ysơraên bị hủy diệt là vì họ đã phản bội giao ước của Đức Chúa Trời.[18]

Năm thứ 14 đời Êxêchia, quân đội Asiri cũng xâm lược Nam Giuđa, chinh phục nhiều thành ấp và tiến đến bao vây thủ đô Giêrusalem. Đức Chúa Trời đã hứa sự cứu rỗi cho Nam Giuđa, nơi giữ Lễ Vượt Qua nên Ngài đã sai thiên sứ đến tiêu diệt quân đội của Asiri. 185.000 quân lính bị giết chỉ trong một đêm và quân đội Asiri phải rút lui.[19] Nam Giuđa đã được bảo vệ khỏi tai vạ theo như lời hứa được chứa đựng trong Lễ Vượt Qua và thoát khỏi nguy cơ diệt vong.

  • Thời đại Giôsia

Vương quốc Nam Giuđa sau thời vua Êxêchia đã không giữ Lễ Vượt Qua và lại dựng lên những hình tượng mà Êxêchia đã phá hủy. Giôsia, chắt của Êxêchia, là vua thứ 16 của nước Nam Giuđa, đã đọc sách luật pháp được tìm thấy trong khi sửa chữa đền thờ vào năm thứ 18 sau khi lên ngôi, và đã nhận ra Lễ Vượt Qua.[20] Sau khi Giôsia và dân sự quyết tâm giữ Lễ Vượt Qua, họ đã hủy phá các hình tượng mà họ từng không biết và hầu việc trong đền thờ của Đức Chúa Trời.[21] Khi giữ Lễ Vượt Qua xong, họ trừ diệt hết thảy mọi hình tượng thấy được trong đất Ysơraên và Giuđa. Từ thời các quan xét cho tới khi ấy, đã không hề có ai giữ Lễ Vượt Qua như Giôsia đã giữ. Vì thế, Giôsia được ghi chép trong Kinh Thánh là vị vua hết lòng, hết ý, hết sức mình làm theo trọn vẹn mọi luật pháp của Đức Chúa Trời.[22]

Lễ Vượt Qua thời đại Tân Ước

Nghi thức

Sau khi cử hành nghi thức rửa chân vào buổi tối ngày 14 tháng 1 thánh lịch,[23] thì ăn bánh và uống rượu nho tượng trưng cho thịt và huyết của Đức Chúa Jêsus là thực thể của chiên con Lễ Vượt Qua.[24]

Lễ Vượt Qua giao ước mới của Đức Chúa Jêsus Christ

Đức Chúa Jêsus Christ giải phóng loài người khỏi thế gian tội ác thông qua Lễ Vượt Qua giao ước mới.

Lịch sử dân Ysơraên được giải phóng khỏi xứ Êdíptô sau khi giữ Lễ Vượt Qua là lời tiên tri về việc Đức Chúa Jêsus Christ lập ra Lễ Vượt Qua giao ước mới để giải phóng nhân loại khỏi thế gian tội ác. Đức Chúa Jêsus Christ sai PhierơGiăng đi chuẩn bị Lễ Vượt Qua vào ngày người ta bắt chiên, tức ngày 14 tháng 1 thánh lịch.[25] Vào buổi tối hôm ấy, Đức Chúa Jêsus Christ đã giữ Lễ Vượt Qua cùng với các môn đồ sau khi trực tiếp rửa chân cho họ tại phòng cao của Mác.[23] Đức Chúa Jêsus Christ đã phán rằng bánh của Lễ Vượt Qua là thịt Ngài, và rượu nho của Lễ Vượt Qua là huyết Ngài đã đổ ra cho nhiều người được tha tội,[24] và tuyên bố giao ước mới.

Ðến giờ, Ngài ngồi bàn ăn, các sứ đồ cùng ngồi với Ngài. Ngài phán rằng: Ta rất muốn ăn lễ Vượt qua nầy với các ngươi trước khi ta chịu đau đớn... Ðoạn, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn xong, bẻ ra phân phát cho môn đồ, mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, đã vì các ngươi mà phó cho; hãy làm sự nầy để nhớ đến ta. Khi ăn xong, Ngài cũng làm như vậy, lấy chén đưa cho môn đồ, mà phán rằng: Chén nầy là giao ước mới trong huyết ta vì các ngươi mà đổ ra.

- Luca 22:14-20

Đức Chúa Jêsus Christ đã nhấn mạnh về rượu nho của Lễ Vượt Qua rằng “Chén nầy là giao ước mới trong huyết ta”, và cũng phán rằng rất muốn ăn Lễ Vượt Qua này. Điều này cho biết rằng Lễ Vượt Qua giao ước mới chính là trọng tâm của giao ước mới. Vào hôm sau ngày Lễ Vượt Qua, Đức Chúa Jêsus Christ đã hy sinh trên thập tự giá với tư cách là thực thể của chiên con Lễ Vượt Qua. Quân lính La Mã đã đánh gãy xương của hai tên trộm cướp bị treo trên thập tự giá bên tả và bên hữu Đức Chúa Jêsus, nhưng Đức Chúa Jêsus không bị đánh gãy xương, mà bị đâm vào sườn bằng giáo. Điều này là sự ứng nghiệm lời tiên tri rằng chẳng nên bẻ gãy những xương của chiên Lễ Vượt Qua.[26]

Hội Thánh sơ khai giữ gìn giao ước mới

Lịch sử giữ Lễ Vượt Qua lần thứ hai trong đồng vắng Sinai vào năm kế tiếp sau khi dân Ysơraên ra khỏi Êdíptô là lời tiên tri về sự các sứ đồ và các thánh đồ Hội Thánh sơ khai sẽ giữ Lễ Vượt qua giao ước mới vào buổi chiều tối ngày 14 tháng giêng thánh lịch hàng năm sau khi Đức Chúa Jêsus thăng thiên. Sứ đồ Phaolô nhấn mạnh rằng chúng ta phải giữ Lễ Vượt Qua vì Đấng Christ đã hy sinh với tư cách là thực thể của chiên con Lễ Vượt Qua.[27] Sứ đồ còn rao truyền rằng mỗi khi ăn bánh và uống rượu nho vào đêm mà Đức Chúa Jêsus bị bắt, tức là vào đêm Lễ Vượt Qua thì kỷ niệm sự hy sinh của Đức Chúa Jêsus và phải giữ Lễ Vượt Qua cho đến ngày Chúa đến.

Vả, tôi có nhận nơi Chúa điều tôi đã dạy cho anh em: Ấy là Đức Chúa Jêsus, trong đêm Ngài bị nộp (Lễ Vượt Qua), lấy bánh, tạ ơn, rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm điều nầy để nhớ ta... Chén nầy là sự giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi uống, hãy làm điều nầy để nhớ ta. Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến.

- I Côrinhtô 11:23-26

Phước lành của Lễ Vượt Qua

Nước Thiên Đàng

Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền Giáo Tin Lành Thế Giới giữ Lễ Vượt Qua giao ước mới.

Lịch sử 40 năm trong đồng vắng của người dân Ysơraên sau khi ra khỏi xứ Êdíptô cho thấy trước những sự kiện sẽ xảy ra vào thời đại Tân Ước.[28] Người dân Ysơraên được giải phóng khỏi xứ Êdíptô sau khi giữ Lễ Vượt Qua, rồi trải qua cuộc sống đồng vắng trong 40 năm và đi vào xứ Canaan, lịch sử ấy chính là lời tiên tri về việc các thánh đồ thời đại Tân Ước được giải thoát khỏi thế gian tội ác nhờ giữ Lễ Vượt Qua, sau khi trải qua đồng vắng đức tin, họ sẽ được đi vào Nước Thiên Đàng, là xứ Canaan phần linh hồn.[29][30]

Giống như không có bất cứ ghi chép nào về việc người dân Ysơraên giữ Lễ Vượt Qua cho đến tận trước khi họ đi vào xứ Canaan sau khi giữ Lễ Vượt Qua lần thứ hai trong đồng vắng Sinai, thì kể cả vào thời đại Tân Ước, Lễ Vượt Qua đã không được giữ trong suốt khoảng 1600 năm từ sau Hội nghị tôn giáo Nicaea vào năm 325. Dân Ysơraên đã giữ Lễ Vượt Qua ngay trước khi đi vào Canaan. Đây là lời tiên tri cho thấy rằng các thánh đồ thời đại Tân Ước sẽ khôi phục Lễ Vượt Qua giao ước mới đã không được giữ trong suốt khoảng thời gian dài, ngay trước khi đi vào Nước Thiên Đàng, là xứ Canaan trên trời.[31] Giống như dân Ysơraên đã giữ Lễ Vượt Qua rồi được đi vào Canaan, các thánh đồ giữ Lễ Vượt Qua giao ước mới vào thời đại Tân Ước mới có thể đi vào Nước Thiên Đàng là xứ Canaan phần linh hồn.

Sự tha tội

Kinh Thánh chép rằng nhân loại phải chịu sự chết vì tội lỗi.[32] Nhân loại không thể tránh khỏi sự chết, suốt đời bị trói buộc và làm nô lệ cho tội lỗi.[33] Con đường duy nhất được giải phóng khỏi tội lỗi là nhờ vào công lao huyết quý báu của Đấng Christ đổ ra trên thập tự giá.[34] Đức Chúa Jêsus Christ phán rằng rượu nho của Lễ Vượt Qua chính là huyết Ngài đã đổ ra cho nhiều người được tha tội. Vì thế, chúng ta phải giữ Lễ Vượt Qua thì mới được nhận lấy huyết của Đấng Christ và được nhận sự tha tội. Người dân Ysơraên giữ Lễ Vượt Qua vào thời đại Cựu Ước rồi được giải phóng khỏi Êdíptô, giống như vậy người giữ Lễ Vượt Qua giao ước mới vào thời đại Tân Ước sẽ được giải phóng khỏi thế gian tội ác.[35]

Sự sống đời đời

Nếu tội lỗi - nguyên nhân dẫn đến sự chết, bị biến mất đi thì chúng ta sẽ được sự sống đời đời. Vì thế, nếu được nhận sự tha tội thì sẽ được nhận phước lành sự sống đời đời. Bởi đó, Đức Chúa Jêsus Christ đã phán rằng ai ăn thịt và uống huyết Ngài bằng cách giữ gìn Lễ Vượt Qua giao ước mới thì được sự sống đời đời.

Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu. Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại.

- Giăng 6:53-54

Sở dĩ Ngài ban sự sống đời đời thông qua Lễ Vượt Qua giao ước mới là vì Nước Thiên Đàng - nơi mà nhân loại đang trông mong chính là nơi không có sự chết.[36] Bằng thân thể sự chết không thể tránh khỏi cái chết vào một lúc nào đó thì không thể đi vào Nước Thiên Đàng, nên Đức Chúa Trời mới ban cho người dân của Ngài phước lành sự sống đời đời thông qua Lễ Vượt Qua giao ước mới.

Người dân Nam Giuđa đã hủy phá hình tượng sau khi giữ Lễ Vượt Qua vào thời đại Êxêchia.

Tai vạ vượt qua

Lễ Vượt Qua là dấu quyền năng của Đức Chúa Trời khiến cho tai vạ vượt qua. Trong Kinh Thánh có ghi chép lịch sử người dân của Đức Chúa Trời được bảo vệ khỏi tai vạ sau khi giữ Lễ Vượt Qua. Dân Ysơraên giữ Lễ Vượt Qua vào đương thời Xuất Êdíptô đã được bảo hộ trong tai vạ giết chết các con đầu lòng,[37] khi quân đội Asiri tấn công vương quốc Nam Giuđa, vua Êxêchia và dân Giuđa đã giữ Lễ Vượt Qua nên được bảo hộ bởi sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời.[15][19]

Vào thời đại Tân Ước, những người giữ Lễ Vượt Qua giao ước mới được bảo vệ khỏi tai vạ cuối cùng. Người nào ăn thịt và uống huyết của Đức Chúa Jêsus Christ thông qua bánh và rượu nho của Lễ Vượt Qua sẽ là sở hữu của Đức Chúa Trời vì được ở trong Đức Chúa Trời.[38] Đức Chúa Trời đã hứa rằng sẽ bảo hộ những người thuộc sở hữu của Ngài khỏi tai vạ.[39]

Làm hoàn thành điều răn thứ nhất

Lời “Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác” là điều răn thứ nhất trong Mười Điều Răn, có bao gồm mệnh lệnh rằng chớ hầu việc thần khác và chỉ hầu việc Đức Chúa Trời mà thôi. Lễ Vượt Qua là lẽ thật đặc biệt khiến cho các thần khác bị hủy diệt và chỉ còn lại Đức Chúa Trời. Ấy là vì từ thời Xuất Êdíptô, Lễ Vượt qua đã được thiết lập như là ngày giáng hình phạt xuống các thần khác.[37] Khi tất cả các thần khác bị xét đoán bởi Lễ Vượt Qua, thì chỉ còn lại Đức Chúa Trời, nếu nhận biết và giữ Lễ Vượt Qua thì sẽ không hầu việc các thần khác mà chỉ hầu việc Đức Chúa Trời thôi. Lịch sử các thần của Êdíptô bị hủy diệt vào đêm Lễ Vượt Qua trong thời đại Môise và lịch sử các hình tượng bị trừ diệt, người dân chỉ hầu việc Đức Chúa Trời sau khi giữ Lễ Vượt Qua vào thời đại Êxêchia và Giôsia là các sự việc điển hình. Ngay cả vào thời đại Tân Ước, nếu giữ Lễ Vượt Qua giao ước mới thì có thể giữ trọn vẹn điều răn thứ nhất của Đức Chúa Trời.

Xem thêm

Video liên quan

  • 총회장 김주철 목사 설교: 지키라 분부하신 유월절 성만찬

  • Church of God TUBE 공식 채널 영상: 믿음의 목적과 유월절

Chú thích

  1. "פֶּסַח", 《네이버 고대 히브리어사전》
  2. "פָּסַח", 《네이버 고대 히브리어사전》
  3. “Phục Truyền Luật Lệ Ký 16:1-7”. Hãy giữ tháng lúa trổ làm lễ Vượt qua cho Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy trong tháng lúa trỗ, mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, đương ban đêm đem ngươi ra khỏi xứ Êdíptô. Tại trong nơi mà Đức Giêhôva sẽ chọn để danh Ngài ở, ngươi phải dùng con sinh bằng bầy chiên và bầy bò, dâng làm lễ Vượt qua cho Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi. Với lễ Vượt qua, chớ ăn bánh pha men;... thịt con sinh mà ngươi đã giết lúc chiều của ngày thứ nhứt, thì chớ để đến sáng mai. Ngươi không được giết con sinh về lễ Vượt qua trong một thành nào mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi ban cho ngươi; nhưng chỉ trong nơi mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi sẽ chọn để danh Ngài ở; ấy là nơi mà ngươi phải giết con sinh về lễ Vượt qua, vào lối chiều, vừa khi mặt trời lặn, nhằm giờ mà ngươi đã ra khỏi xứ Êdíptô. Phải nấu thịt con sinh, và ăn tại trong nơi mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi sẽ chọn, rồi sáng mai trở về trại mình.
  4. “Dân Số Ký 9:11-12”. Mấy người đó phải giữ lễ nầy ngày mười bốn tháng hai, vào buổi chiều tối, ăn bánh không men cùng rau đắng, chớ nên để chi còn dư lại đến sáng mai, và cũng chẳng nên bẻ gãy những xương; phải giữ theo mọi luật lệ về lễ Vượt qua vậy.
  5. “Xuất Êdíptô Ký 12:42-47”. ... Đức Giêhôva phán cùng Môise và Arôn rằng: Đây là luật lệ về lễ Vượt qua... Lễ đó chỉ ăn nội trong nhà; ngươi đừng đem thịt ra ngoài, và cũng đừng làm gãy một cái xương nào. Hết thảy hội chúng Ysơraên phải giữ lễ Vượt qua.
  6. “출애굽기 12:5-11”. 너희 어린양은 흠 없고 일 년 된 수컷으로 하되 ... 이달 십사 일까지 간직하였다가 해 질 때에 이스라엘 회중이 그 양을 잡고 그 피로 양을 먹을 집 문 좌우 설주와 인방에 바르고 그 밤에 그 고기를 불에 구워 무교병과 쓴 나물과 아울러 먹되 ... 이것이 여호와의 유월절이니라
  7. “출애굽기 12:29-30”. 밤중에 여호와께서 애굽 땅에서 모든 처음 난 것 곧 위에 앉은 바로의 장자로부터 옥에 갇힌 사람의 장자까지와 생축의 처음 난 것을 다 치시매 ... 애굽에 큰 호곡이 있었으니 이는 그 나라에 사망치 아니한 집이 하나도 없었음이었더라
  8. “출애굽기 40:17”. 제 이년 정월 곧 그 달 초일일에 성막을 세우니라
  9. “민수기 9:1-5”. 애굽 땅에서 나온 다음 해 정월에 여호와께서 시내 광야에서 모세에게 일러 가라사대 이스라엘 자손으로 유월절을 그 정기에 지키게 하라 ... 그들이 정월 십사 일 해 질 때에 시내 광야에서 유월절을 지켰으되 이스라엘 자손이 여호와께서 모세에게 명하신 것을 다 좇아 행하였더라
  10. “민수기 9:9-13”. 여호와께서 모세에게 일러 가라사대 이스라엘 자손에게 고하여 이르라 너희나 너희 후손 중에 시체로 인하여 부정케 되든지 먼 여행 중에 있든지 할지라도 다 여호와 앞에 마땅히 유월절을 지키되 이월 십사 일 해 질 때에 그것을 지켜서 ... 유월절 모든 율례대로 지킬 것이니라 그러나 사람이 정결도 하고 여행 중에도 있지 아니하면서 유월절을 지키지 아니하는 자는 그 백성 중에서 끊쳐지리니
  11. “민수기 14:29-30”. 너희 시체가 이 광야에 엎드러질 것이라 너희 이십 세 이상으로 계수함을 받은 자 곧 나를 원망한 자의 전부가 여분네의 아들 갈렙과 눈의 아들 여호수아 외에는 내가 맹세하여 너희로 거하게 하리라 한 땅에 결단코 들어가지 못하리라
  12. “여호수아 5:2-5”. 여호와께서 여호수아에게 이르시되 너는 부싯돌로 칼을 만들어 이스라엘 자손들에게 다시 할례를 행하라 하시매 ... 여호수아가 할례를 시행한 까닭은 이것이니 애굽에서 나온 모든 백성 중 남자 곧 모든 군사는 애굽에서 나온 후 광야 노중에서 죽었는데 그 나온 백성은 다 할례를 받았으나 오직 애굽에서 나온 후 광야 노중에서 난 자는 할례를 받지 못하였음이라
  13. “출애굽기 12:48”. 너희와 함께 거하는 타국인이 여호와의 유월절을 지키고자 하거든 그 모든 남자는 할례를 받은 후에야 가까이하여 지킬지니 곧 그는 본토인과 같이 될 것이나 할례 받지 못한 자는 먹지 못할 것이니라
  14. “여호수아 5:10-12”. 이스라엘 자손들이 길갈에 진 쳤고 그달 십사 일 저녁에는 여리고 평지에서 유월절을 지켰고 ... 이스라엘 사람들이 다시는 만나를 얻지 못하였고 그해에 가나안 땅의 열매를 먹었더라
  15. 15,0 15,1 “II Sử Ký 30:1-12”. Êxêchia sai sứ đến cả Ysơraên và Giuđa, cũng viết thư cho người Épraim và người Manase, đòi chúng tới đền Đức Giêhôva, tại Giêrusalem, đặng giữ lễ Vượt qua cho Giêhôva Đức Chúa Trời của Ysơraên... Các trạm đi thành nầy qua thành kia, trong khắp xứ Épraim, Manase, và cho đến đất Sabulôn; song người ta chê cười nhạo báng chúng. Dầu vậy, cũng có mấy người trong Ase, Manase, và Sabulôn chịu hạ mình xuống và đến Giêrusalem. Đức Chúa Trời cũng cảm động người Giuđa, đồng lòng vâng mạng lịnh của vua và các quan trưởng đã truyền ra, theo lời của Đức Giêhôva.
  16. “역대하 31:1”. 이 모든 일이 마치매 거기 있는 이스라엘 무리가 나가서 유다 여러 성읍에 이르러 주상을 깨뜨리며 아세라 목상을 찍으며 유다와 베냐민과 에브라임과 므낫세 온 땅에서 산당과 단을 제하여 멸하고 이스라엘 모든 자손이 각각 그 본성 기업으로 돌아갔더라
  17. 최창모, "북이스라엘의 역사", 《이스라엘사》, 미래엔, 2007, "기원전 925년 솔로몬 사후 등극한 여로보암 왕으로부터 721년 아시리아로부터 멸망당할 때 마지막 왕인 호세아에 이르기까지 약 200년을 유지해 온 북이스라엘 왕조는 모두 19명의 왕을 낳았다."
  18. “열왕기하 18:9-12”. 히스기야왕 사 년 곧 이스라엘 왕 엘라의 아들 호세아 칠 년에 앗수르 왕 살만에셀이 사마리아로 올라와서 에워쌌더라 삼 년 후에 그 성이 함락되니 곧 히스기야의 육 년이요 이스라엘 왕 호세아의 구 년이라 사마리아가 함락되매 앗수르 왕이 이스라엘을 사로잡아 앗수르에 이르러 할라와 고산 하볼 하숫가와 메대 사람의 여러 성읍에 두었으니 이는 저희가 그 하나님 여호와의 말씀을 준행치 아니하고 그 언약을 배반하고 여호와의 종 모세의 모든 명한 것을 거스려 듣지도 아니하며 행치도 아니하였음이더라
  19. 19,0 19,1 “II Các Vua 19:30-35”. Vua đứng trên tòa, lập giao ước trước mặt Đức Giêhôva, hứa đi theo Đức Giêhôva, hết lòng hết ý gìn giữ những điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, và làm hoàn thành lời giao ước đã chép trong sách này. Cả dân sự đều ưng lời giao ước ấy. Vua bèn truyền lịnh cho thầy tế lễ thượng phẩm Hinhkia, cho mấy thầy phó tế, và các người giữ cửa đền thờ, cất khỏi đền thờ của Đức Giêhôva hết thảy những khí giới người ta làm đặng cúng thờ Baanh, Áttạttê, và cả cơ binh trên trời. Người bảo thiêu các vật đó ngoài Giêrusalem trong đồng ruộng Xếtrôn, rồi đem tro nó đến Bêtên.
  20. “열왕기하 22:3-11”. 요시야왕 십팔 년에 ... 그 전을 수리하게 하라 하니라 ... 대제사장 힐기야가 서기관 사반에게 이르되 내가 여호와의 전에서 율법책을 발견하였노라 하고 ... 왕이 율법책의 말을 듣자 곧 그 옷을 찢으니라
  21. “열왕기하 23:3-4”. 왕이 대 위에 서서 여호와 앞에서 언약을 세우되 마음을 다하고 성품을 다하여 여호와를 순종하고 그 계명과 법도와 율례를 지켜 이 책에 기록된 이 언약의 말씀을 이루게 하리라 하매 백성이 다 그 언약을 좇기로 하니라 왕이 대제사장 힐기야와 모든 버금 제사장들과 문을 지킨 자들에게 명하여 바알과 아세라와 하늘의 일월성신을 위하여 만든 모든 기명을 여호와의 전에서 내어다가 예루살렘 바깥 기드론 밭에서 불사르고 그 재를 벧엘로 가져가게 하고
  22. “열왕기하 23:21-25”. 왕이 뭇 백성에게 명하여 가로되 이 언약책에 기록된 대로 너희의 하나님 여호와를 위하여 유월절을 지키라 하매 사사가 이스라엘을 다스리던 시대부터 ... 이렇게 유월절을 지킨 일이 없었더니 요시야왕 십팔 년에 예루살렘에서 여호와 앞에 이 유월절을 지켰더라 요시야가 또 유다 땅과 예루살렘에 보이는 신접한 자와 박수와 드라빔과 우상과 모든 가증한 것을 다 제하였으니 ... 요시야와 같이 마음을 다하며 성품을 다하며 힘을 다하여 여호와를 향하여 모세의 모든 율법을 온전히 준행한 임금은 요시야 전에도 없었고 후에도 그와 같은 자가 없었더라
  23. 23,0 23,1 “요한복음 13:4-15”. 대야에 물을 담아 제자들의 발을 씻기시고 ... 내가 주와 또는 선생이 되어 너희 발을 씻겼으니 너희도 서로 발을 씻기는 것이 옳으니라 내가 너희에게 행한 것같이 너희도 행하게 하려 하여 본을 보였노라
  24. 24,0 24,1 “마태복음 26:19-28”. 제자들이 예수의 시키신 대로 하여 유월절을 예비하였더라 저물 때에 예수께서 열두 제자와 함께 앉으셨더니 ... 저희가 먹을 때에 예수께서 떡을 가지사 축복하시고 떼어 제자들을 주시며 가라사대 받아 먹으라 이것이 내 몸이니라 하시고 또 잔을 가지사 사례하시고 저희에게 주시며 가라사대 너희가 다 이것을 마시라 이것은 죄 사함을 얻게 하려고 많은 사람을 위하여 흘리는바 나의 피 곧 언약의 피니라
  25. “누가복음 22:7-8”. 유월절 양을 잡을 무교절일이 이른지라 예수께서 베드로와 요한을 보내시며 가라사대 가서 우리를 위하여 우리로 먹게 하라
  26. “요한복음 19:32-36”. 군병들이 가서 예수와 함께 못 박힌 첫째 사람과 또 그 다른 사람의 다리를 꺾고 예수께 이르러는 이미 죽은 것을 보고 다리를 꺾지 아니하고 그 중 한 군병이 창으로 옆구리를 찌르니 곧 피와 물이 나오더라 ... 이 일이 이룬 것은 그 뼈가 하나도 꺾이우지 아니하리라 한 성경을 응하게 하려 함이라
  27. “고린도전서 5:7-8”. 우리의 유월절 양 그리스도께서 희생이 되셨느니라 이러므로 우리가 명절[유월절]을 지키되
  28. “I Côrinhtô 10:1-11”. ... Song phần nhiều trong vòng họ không đẹp lòng Đức Chúa Trời, nên đã ngã chết nơi đồng vắng... Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời.
  29. “Hêbơrơ 3:15-19”. trong khi còn nói rằng: Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, Thì chớ cứng lòng, như lúc nổi loạn, Vả, ai là kẻ nghe tiếng Ngài rồi nổi loạn, há chẳng phải những người nhờ Môi-se dẫn ra khỏi xứ Êdíptô sao? Đức Chúa Trời đã giận ai trong bốn mươi năm? Há chẳng phải giận những kẻ phạm tội, mà thây họ đã ngã trong đồng vắng sao? Ngài lại thề với ai rằng không được vào sự yên nghỉ của Ngài? Há chẳng phải với những người không vâng lời sao? Vả, chúng ta thấy những người ấy không thể vào đó được vì cớ không tin.
  30. “Hêbơrơ 4:6-11”. Như vậy, vì đã dành cho mấy người phải vào đó, và vì những kẻ nghe tin lành ấy trước nhứt đã không vào đó bởi chẳng tin... Vậy thì còn lại một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời. Vì ai vào sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời, thì nghỉ công việc mình, cũng như Đức Chúa Trời đã nghỉ công việc của Ngài vậy. Vậy, chúng ta phải gắng sức vào sự yên nghỉ đó, hầu cho không có một người nào trong chúng ta theo gương kẻ chẳng tin kia mà vấp ngã.
  31. “Êsai 25:6-9”. Đức Giêhôva vạn quân sẽ ban cho mọi dân tộc, tại trên núi nầy, một tiệc yến đồ béo, một diên rượu ngon... Ngài đã nuốt sự chết đến đời đời... Trong ngày đó, người ta sẽ nói rằng: Kìa, ấy là Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta đã mong đợi Ngài, và Ngài sẽ cứu chúng ta. Ấy là Đức Giêhôva; chúng ta đã mong đợi Ngài, chúng ta sẽ nức lòng mừng rỡ và đồng vui về sự cứu rỗi của Ngài!
  32. “Rôma 6:23”. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.
  33. “Giăng 8:34”. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi.
  34. “Êphêsô 1:7”. Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài.
  35. “Rôma 8:1-2”. Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Ðức Chúa Jêsus Christ; vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Ðức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết.
  36. “Khải Huyền 21:1-4”. Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới... Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.
  37. 37,0 37,1 “Xuất Êdíptô Ký 12:11-13”. ... ấy là lễ Vượt qua của Đức Giêhôva. Đêm đó ta sẽ đi qua xứ Êdíptô, hành hại mọi con đầu lòng xứ Êdíptô, từ người ta cho đến súc vật; ta sẽ xét đoán các thần của xứ Êdíptô; ta là Đức Giêhôva. Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Êdíptô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi.
  38. “Giăng 6:56”. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người.
  39. “Êsai 43:1-2”. ... Ðừng sợ, vì ta đã chuộc ngươi. Ta đã lấy tên ngươi gọi ngươi; ngươi thuộc về ta. Khi ngươi vượt qua các dòng nước, ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ chẳng che lấp. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa chẳng đốt ngươi. Vì ta là Giêhôva Ðức Chúa Trời ngươi.