Nơi thánh (đền tạm)

Từ Từ điển tri thức Hội Thánh của Đức Chúa Trời
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Nơi thánh (đền tạm)
Nơi thánh (đền tạm)

Nơi thánh (Sanctuary) có nghĩa là “địa điểm thánh”, “nơi ở của Đức Chúa Trời”, là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa dân sự. Nơi thánh là nơi bảo quản Mười Điều Răn, tức lời giao ước của Đức Chúa Trời, và là nơi diễn ra sự tha tội cho người dân Ysơraên. Cấu trúc nơi đây được phân chia thành nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Nơi thánh đầu tiên được dựng dưới hình thức lều tạm có thể di chuyển được, nên được gọi là đền tạm. Về sau, khi đã xây dựng cố định rồi thì được gọi là đền thờ.

Tên gọi

Nơi thánh trong Kinh Thánh Cựu Ước được chép theo tiếng Hêbơrơ là “miqdash(מִקְדָּשׁ)'[1] hoặc “kodesh (קֹדֶשׁ)'[2] có ý nghĩa là “nơi thánh khiết”. Nơi thánh được gọi là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa người dân của Ngài[3] hoặc nhà của Đức Chúa Trời.[4]

Từ “nơi thánh” theo nghĩa hẹp là chỉ về phần nơi thánh ngoài, còn theo nghĩa rộng thì chỉ về toàn bộ phần bên ngoài lẫn bên trong. Nơi thánh trong còn được gọi là nơi chí thánh (至聖所, The Most Holy Place). Theo nghĩa rộng hơn, nơi thánh chỉ về toàn bộ công trình (đền tạm) hoặc tòa nhà (đền thờ) có đặt để nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Trong Kinh Thánh tiếng Hàn, nơi chí thánh cũng được dịch là nơi thánh.[5] Khi dựng lên nơi thánh, người ta đã dựng như một cái lều được làm bởi các sợi chỉ xoắn, nên đã được gọi là lều tạm (帳幕) hay đền tạm (聖幕). Nơi đó còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting), làm tăng thêm ý nghĩa là “nơi gặp gỡ Đức Chúa Trời”. Vì là nơi bảo quản hòm bảng chứng (hòm giao ước) nên cũng được gọi là “đền tạm chứng cớ”.[6]

Cấu tạo của nơi thánh

Bản vẽ mô hình nơi thánh

Đền tạm mà Môise đã dựng là một đền thờ di động hình chữ nhật có kích thước tổng thể bề ngang 50 thước, bề dài 100 thước[7] với kết cấu có thể tháo dỡ và lắp đặt lại tương tự như lán trại ngày nay. Vì khi ấy dân Ysơraên đang sinh hoạt trong đồng vắng nên không thể xây cất một tòa nhà cố định.

Nơi thánh là kiến trúc quan trọng nhất nằm bên trong đền tạm, khác với ngoại quan bên ngoài trông có vẻ như là một. Cấu trúc bên trong được phân chia thành hai phần: phía trước bức màn (nơi thánh ngoài, nơi thánh) và phần phía sau bức màn (nơi thánh trong, nơi chí thánh). Có phương hướng đã được định sẵn khi dựng nên nơi thánh. Ở phía có nơi chí thánh, tức mặt sau của nơi thánh là phía tây, còn mặt trước của lối ra vào hướng về phía đông.[8][9]

Về sau, tuy đền tạm di động được thay đổi thành đền thờ cố định, nhưng cấu tạo cơ bản và phương hướng vẫn đồng nhất.

Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất. Vả, một đền tạm đã dựng lên: phần thứ nhứt gọi là nơi thánh, có chân đèn, bàn và bánh bày ra; rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh, có lư hương bằng vàng và hòm giao ước, toàn bọc bằng vàng. Trong hòm có một cái bình bằng vàng đựng đầy mana, cây gậy trổ hoa của Arôn, và hai bảng giao ước.

- Hêbơrơ 9:1-4

Nơi thánh ngoài

Bàn bánh trần thiết – Chân đèn bằng vàng – Bàn thờ xông hương
Bàn bánh trần thiết – Chân đèn bằng vàng – Bàn thờ xông hương

Phần bên ngoài nghĩa là nơi thánh phía ngoài, là không gian tính từ cửa nơi thánh đến phía trước bức màn. Trong đó có bàn để bánh trần thiết, chân đèn bằng vàng (chân đèn) và bàn thờ xông hương.

  • Bàn bánh trần thiết: Chiếc bàn được làm bằng cây sitim, bề rộng hai thước, bề dài một thước và bề cao một thước rưỡi. Bàn được bọc bằng vàng ròng và chạy một đường viền chung quanh. Trên bàn luôn có bánh trần thiết (陳設餠), và cũng đặt sẵn dĩa, chén, chậu, ly dùng làm lễ quán, đều được làm bằng vàng ròng. Bánh trần thiết được hấp bằng bột lọc không pha men, tổng cộng mười hai ổ bánh được sắp thành hai hàng, mỗi hàng sáu ổ đặt trên bàn. Bánh được thay mới vào mỗi ngày Sabát. Thầy tế lễ thượng phẩm và con cháu mình sẽ ăn bánh đã thay thế ấy trong hành lang của đền tạm.[10][11]
  • Chân đèn bằng vàng (chân đèn): Chân đèn có 7 nhánh, mỗi bên 3 nhánh và có đài như hình hoa hạnh nhân ở phía cuối. Thân đèn, đài, hoa, bầu, toàn bộ đều được làm bằng vàng và được liên kết lại thành một. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng được làm bằng vàng ròng.[12] Bảy cái thếp đèn đóng vai trò chiếu sáng phía trước chân đèn. Phải thắp đèn bằng dầu tinh khiết được ép từ quả ôlive, hầu cho đèn không tắt từ tối cho đến sáng, còn ban ngày thì không thắp đèn.[13]
  • Bàn thờ xông hương: Bàn thờ có bề dài 1 thước, bề ngang 1 thước, bề cao 2 thước được làm bằng cây sitim. Có bốn sừng ló ra ở bốn góc phía trên, được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền vàng xung quanh tứ vi. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ xông hương vào buổi sáng và buổi tối.[14]

Nơi thánh trong (Nơi chí thánh)

Sơ đồ mô hình hòm giao ước. Phần đậy trên hòm giao ước chính là nắp thi ân.
Sơ đồ mô hình hòm giao ước. Phần đậy trên hòm giao ước chính là nắp thi ân.

Đây là không gian bên trong phía sau bức màn, được tạo thành hình vuông có bề dài, bề ngang, bề cao bằng nhau. Bên trong là nơi có hòm giao ước đang bảo quản Mười Điều Răn, vì là “nơi vô cùng thánh khiết” nên được gọi là “nơi chí thánh”. Không ai được phép đi vào nơi chí thánh, duy chỉ thầy tế lễ thượng phẩm được xức dầu mới có thể đi vào nơi chí thánh mỗi năm một lần vào Đại Lễ Chuộc Tội trong khi mang theo của lễ chuộc tội.[15][16]

  • Bức màn: Được thêu hình chêrubim, dùng làm tấm màn phân biệt nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Để đi vào nơi thánh trong từ bên ngoài thì nhất định phải đi qua bức màn.[17]
  • Hòm giao ước: Hòm giao ước là phần quan trọng nhất trong số các khí dụng của đền tạm. Hòm được làm bằng cây sitim có bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao một thước rưỡi. Hòm được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền chung quanh bằng vàng. Có bốn cái khoen vàng, và cây đòn được làm bằng vàng xỏ vào khoen để khiêng hòm. Bảng chứng cớ (bảng đá Mười Điều Răn) được đặt trong hòm giao ước.[18]
  • Nắp thi ân: Phần để đậy trên hòm giao ước được gọi là “nắp thi ân (贖罪所)”. Đức Chúa Trời đã phán rằng Ngài sẽ gặp gỡ Môise giữa hai chêrubim ở trên nắp thi ân. Hai chêrubim này biểu tượng cho các chêrubim đang canh giữ cây sự sống trong vườn Êđên. Tại đây, sự tha tội được diễn ra và ân huệ của Đức chúa Trời được ban xuống. Nắp thi ân còn được gọi là “nơi chuộc tội (施恩座, nơi ban ân điển)”.[19]

Hành lang đền tạm

Cái thùng bằng đồng và bàn thờ của lễ thiêu
Cái thùng bằng đồng và bàn thờ của lễ thiêu

Khi đi vào bên trong thông qua cánh cửa đền tạm (cánh cửa phía đông) sẽ thấy một không gian rộng lớn. Hành lang của đền tạm được dựng hàng rào bằng 300 thước vải gai đậu mịn và 60 cây trụ. Chiều cao của cây trụ là 5 thước (khoảng 2,25m), nên sẽ không thể nhìn thấy những gì đang diễn ra bên trong nếu không đi qua cửa đền tạm.

  • Bàn thờ của lễ thiêu: Là bàn thờ được làm bằng đồng để dâng tế lễ lên Đức Chúa Trời.[20] Để tiến vào trong nơi thánh để dâng hương, các thầy tế lễ phải đi vào trong khi mang theo lửa từ bàn thờ của lễ thiêu.[21][22]
  • Thùng đựng nước: Là cái thùng chứa nước để rửa tay và chân. Thùng đựng nước được đặt giữa khoảng bàn thờ của lễ thiêu của đền tạm và cửa ra vào, các thầy tế lễ sẽ rửa tay và chân mình trong đó trước khi đi vào nơi thánh.[23]

Nơi thánh và lịch sử Ysơraên

Cảnh dựng nên đền tạm
Vào ban ngày, trụ mây ở phía trên nơi thánh, còn ban đêm là trụ lửa để cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Khi Môise nhận lấy bảng đá ghi khắc Mười Điều Răn trên núi Sinai, Đức Chúa Trời đã cho Môise thấy đền tạm ở trên trời.[24][25] Sau khi xuống núi, Môise đã truyền lại lời của Đức Chúa Trời cho dân sự rằng để dựng nên đền tạm thì cần thiết các loại lễ vật đa dạng như vàng, bạc, đồng, cây sitim v.v... cũng cần có người khôn ngoan để làm đền tạm và khí dụng.[26] Những người tình nguyện trong dân Ysơraên đã vui vẻ mang đến các lễ vật cần thiết và tiếp tục mang đến mỗi ngày,[27] nên khi các lễ vật dư dật đến nỗi đủ dùng để dựng đền tạm và còn dư lại. Môise đã cho dừng việc mang đến thêm nữa.[28] Bếtsalêên và Ôhôliáp được đầy dẫy Thánh Linh của Đức Chúa Trời, cùng các người khôn khéo đã dựng nên đền tạm. Họ làm ra hết thảy các khí dụng, vật trang trí, trang phục cho thầy tế lễ và kể cả hòm giao ước. Khi việc xây dựng đền tạm được hoàn tất, Môise kiểm tra mọi công việc họ đã làm, thấy mọi sự đều được làm theo như Đức Chúa Trời đã phán dặn, Môise đã chúc phước cho họ. Vào ngày 1 tháng giêng năm sau kể từ khi ra khỏi xứ Êdíptô, Môise đã dựng đền tạm theo lời phán của Đức Chúa Trời. Sau khi đã sắp xếp các khí dụng vào trong đó, người cũng đặt Mười Điều Răn (bảng chứng cớ) vào trong hòm giao ước, và xủ bức màn nơi cửa đền tạm. Thế thì áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy đền tạm. Ban ngày, áng mây của Đức Chúa Trời bao phủ đền tạm, còn ban đêm thì có lửa ở trong áng mây ấy.[29] Kể từ đó, phía trên nơi thánh luôn có trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm dẫn dắt bộ hành của người dân Ysơraên.

Khi đền tạm được dựng lên, Đức Chúa Trời từ trong hội mạc (đền tạm) gọi Môise[30] và chỉ dạy một cách chi tiết về luật lệ tế lễ dâng lên Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Theo lời phán của Đức Chúa Trời, Môise bổ nhiệm Arôn và các con trai người làm thầy tế lễ. Sau khi dâng tế lễ, Arôn và Môise bước ra từ đền tạm và chúc phước cho dân sự. Sự vinh quang của Đức Chúa Trời hiện ra cùng cả dân sự. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra thiêu hóa của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ.

Về sau, hai con trai của Arôn là Nađáp và Abihu đã bỏ hương vào và lấy một thứ lửa lạ khác với lửa trên bàn thờ của lễ thiêu mà Đức Chúa Trời phán dặn[21][22], rồi một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra khiến họ chết ngay khi đang dâng hương.[31] Sau cái chết của họ, Đức Chúa Trời phán với Arôn rằng chớ đi vào trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng ở phía trong nơi thánh luôn luôn để không bị chết.[32] Ngài phán rằng khi nào Arôn đi vào trong nơi thánh thì nhất định phải chuộc tội cho mình và gia đình mình, sau đó mới được bước vào nơi chí thánh để dâng hương hầu cho người khỏi chết.

Sau này, mười hai chi phái Ysơraên đóng trại ở bốn phía đông tây nam bắc xung quanh đền tạm, mỗi bên ba chi phái. Các chi phái Giuđa, Ysaca và Sabulôn ở phía đông; các chi phái Rubên, Simêôn, Gát ở phía nam; các chi phái Épraim, Manase, Bêngiamin ở phía tây; các chi phái Đan, Ase, Néptali ở phía bắc; còn chi phái Lêvi được đặt ở trung tâm. Chi phái Lêvi được giao phó chức vụ hầu việc tại đền tạm, đổi lại họ được nhận một phần mười thu nhập của người dân mỗi chi phái để làm sản nghiệp mình.[33][34] Dân Ysơraên đóng trại và ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình. Khi áng mây ngự lên khỏi đền tạm thì họ tiến về phía trước và đóng trại tại nơi áng mây dừng lại.[35] Còn trong suốt khoảng thời gian áng mây dừng lại trên đền tạm thì họ không di chuyển dù là hai ngày, một tháng hay một năm.

Sau khi vào xứ Canaan, đền tạm từng được dựng lên vào thời Môise đã được dựng tại Silô và hòm giao ước của Đức Chúa Trời được đặt bên trong đền tạm.[36] Vào thời Salômôn, đền thờ Giêrusalem được xây cất cố định trên núi Môria và nơi thánh được chuyển đến đền thờ.

Vai trò và ý nghĩa của nơi thánh

Mười Điều Răn, lễ trọng thể và nơi thánh được liên kết chặt chẽ như một tổ chức không thể tách rời. Cần thiết một nơi thánh để bảo quản an toàn Mười Điều Răn, là lời giao ước của Đức Chúa Trời, và cũng cần thiết các lễ trọng thể của Đức Chúa Trời như là phép đạo để hầu việc Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Hơn nữa, lễ trọng thể là con đường để được sự tinh sạch thông qua của lễ chuộc tội, nhờ đó tiến gần đến Mười Điều Răn (trái sự sống) trong nơi thánh và được nhận sự sống.

Nơi Đức Chúa Trời ngự

Lý do quan trọng nhất khiến nơi thánh được biệt riêng như một nơi thánh khiết, là vì có Đức Chúa Trời ngự ở nơi này. Nơi thánh được gọi là nơi ở của Đức Giêhôva, là nhà của Đức Chúa Trời,[3][37][38] và cũng tượng trưng cho việc Đức Chúa Trời ngự cùng với người dân của Ngài.[39][40] Đền tạm còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting),[41][42][43][44] vì người dân được gặp gỡ Đức Chúa Trời tại đó.

Nơi bảo quản Mười Điều Răn

Mười Điều Răn, tức là điều răn của Đức Chúa Trời đã được bảo quản trong hòm giao ước bên trong nơi chí thánh. Đức Chúa Trời đã đặt Mười Điều Răn trong hòm giao ước, và đậy nắp (nắp thi ân) có hai tượng thiên sứ chêrubim ở trên đó. Trên hòm giao ước có hai thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen chỉ ra sự thật rằng có trái sự sống tại nơi này.

Các thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen cầm gươm lưỡi chói lòa để ngăn chặn không cho tội nhân được đi đến trái sự sống một cách tùy tiện.[45] Giống như vậy, các thiên sứ chêrubim canh giữ hòm giao ước ở nơi chí thánh cũng cầm gươm lưỡi chói lòa, nên những người đến gần hòm giao ước một cách trái phép thì đều bị chết. Uxa đã vô tình chạm tay vào hòm giao ước và bị chết ngay tại chỗ,[46] còn hai con trai Arôn cũng làm trái mạng lịnh của Đức Chúa Trời nên đã bị chết bởi lửa ra từ nơi này.[47] Tức là Mười Điều Răn đã được ban thay cho trái sự sống, nên Đức Chúa Jêsus cũng dạy dỗ rằng “Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các điều răn”.[48]

Nơi diễn ra sự tha tội

Sự tha tội cũng được diễn ra trong nơi thánh mà Đức Chúa Trời ngự. Bằng thân thể của tội nhân thì không thể nhận được Mười Điều Răn mà Đức Chúa Trời đã ban thay cho trái sự sống. Như lời chép rằng “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ”,[49] nên để được tha tội thì cần có huyết hy sinh của của lễ chuộc tội. “Phương thức dâng tế lễ đổ huyết” được truyền lại trong suốt thời gian lâu dài từ sau Abên đã được văn tự hóa vào thời đại Môise.

Các thầy tế lễ trong thời đại Cựu Ước đã dâng tế lễ đổ huyết vì tội lỗi của dân sự trong nơi thánh theo luật pháp của Môise. Tội lỗi của dân sự được tạm thời chuyển đến nơi thánh thông qua tế lễ hằng hiến, tế lễ vào ngày Sabát và lễ trọng thể, cuối cùng tội lỗi ấy sẽ đổ trên con dê đực Axasên vào Đại Lễ Chuộc Tội. Sự này là hình bóng cho thấy rằng vào thời đại Tân Ước, tội lỗi của các thánh đồ sẽ tạm thời chuyển đến Đấng Christ rồi sẽ đổ trên Satan (ma quỉ) thông qua lễ trọng thể. Con dê Axasên phải chịu sự chết khi đi lang thang trong nơi hoang địa, và tội lỗi của dân sự được tha thứ hoàn toàn.

Nơi thánh dưới đất và nơi thánh trên trời

Nơi thánh dưới đất do Môise dựng nên là mô hình và hình bóng bày tỏ về nơi thánh trên trời.[25] Giống như phải được tinh sạch bởi huyết hy sinh của của lễ chuộc tội để được đi vào nơi thánh dưới đất và nhận lấy trái sự sống, chúng ta cũng phải được tinh sạch bởi huyết của Đấng Christ, là Chiên Con, để có thể đi đến cây sự sống trong nơi thánh trên trời.[50][51][52] Khi gìn giữ các kỳ lễ trọng thể tượng trưng cho huyết báu của Đấng Christ, chúng ta sẽ được bước đến với sự sống.

Xem thêm

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. “4720. Miqdash or miqqedash”. Bible Hub.
  2. “6944. qodesh”. Bible Hub.
  3. 3,0 3,1 “Xuất Êdíptô Ký 25:8”. Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ.
  4. “Giêrêmi 51:51”. vì kẻ ngoại đã xâm vào nơi thánh của nhà Đức Giêhôva.
  5. “Hêbơrơ 10:19-20”. Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh [Kinh Thánh NIV: the Most Holy Place (nơi chí thánh)], bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài,
  6. “Dân Số Ký 9:15”. Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.
  7. “Xuất Êdíptô Ký 27:9-18”. Ngươi cũng hãy làm cái hành lang cho đền tạm... Bề dài của hành lang được một trăm thước, bề ngang, mỗi phía, năm chục thước.
  8. “Xuất Êdíptô Ký 26:22”. Ngươi cũng hãy làm sáu tấm ván về phía sau đền tạm, tức là về hướng tây.
  9. “Dân Số Ký 3:38”. Những người đóng trại trước đền tạm về phía đông, tức trước hội mạc về phía mặt trời mọc, là Môise, Arôn và các con trai người, có chức phận săn sóc nơi thánh thế cho dân Ysơraên. Người ngoại đến gần sẽ bị xử tử.
  10. “Xuất Êdíptô Ký 25:23-30”. Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn bằng cây sitim; bề dài hai thước, bề ngang một thước, và bề cao một thước rưỡi, bọc bằng vàng ròng, và chạy một đường viền chung quanh; rồi lên be cho tứ vi bàn, cao chừng bốn ngón tay và chạy cho be một đường viền vàng. Lại đúc bốn cái khoen vàng, tra vào bốn góc nơi chân bàn. Khoen sẽ ở gần be, để xỏ đòn khiêng bàn. Ngươi hãy chuốt đòn bằng cây sitim, bọc vàng, rồi người ta sẽ dùng khiêng bàn đó. Lại hãy lấy vàng ròng mà làm dĩa, chén, chậu, và ly đặng dùng làm lễ quán. Trên bàn ngươi sẽ để bánh trần thiết cho có luôn luôn trước mặt ta.
  11. “Lêvi Ký 24:8-9”. Mỗi ngày sabát, người ta sẽ sắp bánh nầy trước mặt Ðức Giêhôva luôn luôn, do nơi dân Ysơraên cung cấp; ấy là một giao ước đời đời. Các bánh đó sẽ thuộc về Arôn và các con trai người; họ phải ăn tại một nơi thánh, vì là vật chí thánh cho họ, bởi các của lễ dùng lửa dâng cho Ðức Giêhôva. Ấy là một lệ định đời đời.
  12. “Xuất Êdíptô Ký 25:31-40”. Ngươi cũng hãy làm chân đèn bằng vàng ròng. Cái chân, cái thân, cái đài, cái bầu cùng cái hoa của đèn đều làm bằng vàng đánh dát. Hai bên thân đèn sẽ có sáu nhánh nứt ra, ba nhánh ở bên nầy và ba nhánh ở bên kia. Trong sáu nhánh nứt ra trên chân đèn, mỗi nhánh đều sẽ có ba cái đài hình như hột hạnh nhân cùng bầu và hoa. Trên thân chân đèn, lại cũng sẽ có bốn cái đài hình hột hạnh nhân, bầu và hoa. Trong sáu nhánh từ thân chân đèn nứt ra, hễ cứ mỗi hai nhánh thì dưới có một cái bầu. Bầu cùng nhánh của chân đèn đều bằng vàng ròng nguyên miếng đánh dát. Ngươi cũng hãy làm bảy cái thếp đèn, đặng hễ khi thắp thì chiếu trước chân đèn. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng sẽ bằng vàng ròng. Người ta sẽ dùng một talâng vàng ròng làm chân đèn nầy và các đồ phụ tùng của chân đèn. Vậy, ngươi hãy xem, cứ làm y như kiểu đã chỉ cho trên núi.
  13. “Xuất Êdíptô Ký 27:20-21”. Ngươi hãy truyền cho dân Ysơraên đem đến dầu lọc ôlive ép, đặng thắp đèn cho đèn sáng luôn luôn. Trong hội mạc, ở ngoài màn, trước hòm bảng chứng, Arôn cùng các con trai người sẽ lo sửa soạn đèn, hầu cho trước mặt Ðức Giêhôva đèn cháy luôn luôn từ tối cho đến sáng. Ấy là một luật đời đời cho dòng dõi dân Ysơraên phải giữ.
  14. “Xuất Êdíptô Ký 30:1-10”. Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn thờ bằng cây sitim, để xông hương. Mặt bàn sẽ vuông, bề dài một thước, bề ngang một thước, và bề cao hai thước; bàn thờ sẽ có bốn sừng ló ra. Ngươi hãy bọc vàng ròng trên mặt, bốn cạnh chung quanh và các sừng; còn tứ vi chạy đường viền vàng. Dưới đường viền đó, nơi hai bên, hãy làm hai cái khoen bằng vàng, để xỏ đòn dùng đặng khiêng. Hãy chuốt đòn khiêng bằng cây sitim, bọc vàng. Ngươi sẽ để bàn thờ đó trước bức màn che hòm bảng chứng đối cùng nắp thi ân trên hòm, là nơi ta sẽ gặp ngươi. Mỗi buổi sớm mai, khi Arôn làm đèn, sẽ xông hương tại nơi đó. Vào lúc chiều tối, khi Arôn thắp đèn, cũng sẽ xông hương; ấy là một thứ hương phải xông trước mặt Đức Giêhôva luôn luôn, trải qua các đời. Trên bàn thờ nầy chớ xông hương lạ hoặc dâng của lễ thiêu, của lễ chay hay là lễ quán nào hết. Nhưng trải qua các đời, mỗi năm một lần, Arôn sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội, bôi trên sừng bàn thờ nầy đặng chuộc tội cho nó. Ấy sẽ là một việc rất thánh cho Đức Giêhôva.
  15. “Lêvi Ký 16:6-34”. vì trong ngày đó [Đại Lễ Chuộc Tội] người ta sẽ làm lễ chuộc tội cho các ngươi, để các ngươi được tinh sạch: chắc các ngươi sẽ được sạch những tội lỗi mình trước mặt Đức Giêhôva vậy... Thầy tế lễ [thầy tế lễ thượng phẩm] đã được phép xức dầu và lập làm chức tế lễ thế cho cha mình, sẽ mặc lấy bộ áo vải gai, tức là bộ áo thánh, mà làm lễ chuộc tội. Người sẽ chuộc tội cho nơi thánh, cho hội mạc, cho bàn thờ, cho những thầy tế lễ, và cho cả dân của hội chúng. Mỗi năm một lần phải làm lễ chuộc tội cho dân Ysơraên, đặng làm cho sạch các tội lỗi của chúng; ấy sẽ là một lệ định đời đời cho các ngươi vậy. Arôn làm y như Đức Giêhôva đã phán dặn Môise.
  16. “Hêbơrơ 9:1-7”. Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất... rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh... phía trên có hai chêrubim vinh hiển, bóng nó che phủ nơi chuộc tội... nhưng, phần thứ hai, thì mỗi năm một lần chỉ một mình thầy tế lễ thượng phẩm vào, chẳng bao giờ mà không đem huyết dâng vì chính mình và vì sự lầm lỗi dân chúng.
  17. “Xuất Êdíptô Ký 26:31-33”. Ngươi hãy làm một bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, có thêu những hình chêrubim cực xảo; rồi xủ màn đó trên bốn trụ bằng cây sitim, bọc vàng, dựng trên bốn lỗ trụ bằng bạc; các móc trụ đều bằng vàng. Ngươi sẽ treo màn đó vào móc dưới bức bong, rồi ở phía trong màn để hòm bảng chứng; màn nầy dùng phân biệt cho các ngươi nơi thánh và nơi chí thánh. Đoạn, hãy để cái nắp thi ân trên hòm bảng chứng, đặt trong nơi chí thánh.
  18. “Xuất Êdíptô Ký 25:10-16”. Vậy, chúng hãy đóng một cái hòm bằng cây sitim; bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao cũng một thước rưỡi, lấy vàng ròng bọc trong, bọc ngoài, và chạy đường viền chung quanh hòm bằng vàng. Ngươi cũng hãy đúc bốn khoen bằng vàng để tại bốn góc hòm: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia, cùng làm hai cây đòn bằng cây sitim, bọc vàng; rồi lòn đòn vào khoen hai bên hông hòm, để dùng đòn khiêng hòm. Đòn sẽ ở trong khoen luôn, không nên rút ra. Ngươi hãy cất vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho.
  19. “Xuất Êdíptô Ký 25:17-21”. Ngươi cũng hãy làm một cái nắp thi ân [chú giải: ngôi thương xót] bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. Lại làm hai tượng chêrubim bằng vàng dát mỏng, để hai đầu nắp thi ân, ló ra ngoài, một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia. Hai chêrubim sẽ sè cánh ra, che trên nắp thi ân, đối diện nhau và xây mặt vào nắp thi ân. Ngươi hãy để nắp thi ân trên hòm, rồi để vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho.
  20. “Xuất Êdíptô Ký 27:1-8”. Ngươi cũng hãy đóng một bàn thờ bằng cây sitim, hình vuông, năm thước bề dài, năm thước bề ngang, và bề cao ba thước. Nơi bốn góc bàn thờ hãy làm sừng ló ra và bọc đồng. Những đồ phụ tùng của bàn thờ thì hãy làm bằng đồng: bình đựng tro, vá, ảng, nỉa và bình hương. Lại làm cho bàn thờ một tấm rá bằng lưới đồng; và nơi bốn góc rá làm bốn cái khoen bằng đồng; rồi để rá đó dưới thành bàn thờ, từ dưới chân lên đến nửa bề cao. Cũng hãy chuốt đòn khiêng bàn thờ bằng cây sitim, bọc đồng, rồi xỏ vào những khoen; khi khiêng đi, đòn sẽ ở hai bên bàn thờ. Bàn thờ sẽ đóng bằng ván, trống bộng, làm y như đã chỉ cho ngươi trên núi vậy.
  21. 21,0 21,1 “Dân Số Ký 16:42-46”. Khi hội chúng đương hiệp nhau nghịch cùng Môise và Arôn, thì ngó về hướng hội mạc, xảy thấy trụ mây bao phủ hội mạc, và sự vinh quang của Đức Giêhôva hiện ra. Môise và Arôn đến đứng trước hội mạc, Đức Giêhôva phán cùng Môise rằng: Hãy dang ra khỏi giữa hội chúng nầy, thì ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát. Nhưng hai người sấp mặt xuống đất, rồi Môise nói cùng Arôn rằng: Hãy cầm lấy lư hương để lửa từ trên bàn thờ [bàn thờ của lễ thiêu] vào, bỏ hương lên trên, mau mau đi đến hội chúng và làm lễ chuộc tội cho họ; vì sự thạnh nộ của Ðức Giêhôva đã nổi lên, và tai vạ đã phát khởi.
  22. 22,0 22,1 “Lêvi Ký 16:12”. đoạn lấy lư hương đầy than hực đỏ trên bàn thờ [bàn thờ của lễ thiêu] trước mặt Ðức Giêhôva, và một vốc hương bột, mà đem vào phía trong bức màn.
  23. “Xuất Êdíptô Ký 30:17-22”. Đức Giêhôva lại phán cùng Môise nữa rằng: Ngươi hãy làm một cái thùng với chân thùng bằng đồng, đặng rửa mình ở trong, rồi để giữa khoảng của hội mạc và bàn thờ, và đổ nước vào. Arôn cùng các con trai người sẽ rửa tay và chân mình ở trong. Khi họ vào hội mạc sẽ lấy nước rửa mình, hầu cho họ khỏi chết; và khi lại gần bàn thờ đặng phụng sự, tức là xông của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giêhôva, họ cũng phải giữ như vậy. Thế thì, họ hãy rửa tay và chân, hầu cho khỏi chết. Ấy là một lệ đời đời cho Arôn cùng dòng dõi người trải qua các đời.
  24. “Xuất Êdíptô Ký 25:1-9”. Đức Giêhôva phán cùng Môise rằng... Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ. Hãy làm đền đó y như kiểu đền tạm cùng kiểu các đồ dùng mà ta sẽ chỉ cho ngươi.
  25. 25,0 25,1 “Hêbơrơ 8:5”. và giữ sự thờ phượng, sự thờ phượng đó chẳng qua là hình và bóng của những sự trên trời mà thôi, cũng như khi Môise gần dựng đền tạm, thì Đức Chúa Trời phán bảo rằng: Hãy cẩn thận, làm mọi việc theo như kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi.
  26. “Xuất Êdíptô Ký 35:4-19”. Môise nói cùng cả hội chúng Ysơraên rằng: Đây là các lời Đức Giêhôva đã phán dặn: Hãy lấy một lễ vật chi ở nhà các ngươi mà dâng cho Đức Giêhôva. Hễ người nào có lòng thành dâng cho, hãy đem lễ vật cho Đức Giêhôva: vàng, bạc, và đồng; chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, da cá nược, cây sitim, dầu thắp, các thứ hương liệu đặng chế dầu xức và hương thơm, bích ngọc, và các thứ ngọc khác để dùng khảm cho êphót và bảng đeo ngực. Trong vòng các ngươi mấy người khôn ngoan hơn hết hãy đến làm mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn; đền tạm, trại và bong của đền tạm, móc, ván, xà ngang, trụ và lỗ trụ; hòm bảng chứng và đòn khiêng; nắp thi ân cùng màn che nơi chí thánh; cái bàn và đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn cùng bánh trần thiết; chân đèn, đồ phụ tùng, các đèn và dầu thắp đèn; bàn thờ xông hương cùng đòn khiêng; dầu xức, hương liệu, và bức màn cửa đền tạm; bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng; đòn khiêng và các đồ phụ tùng của bàn thờ; cái thùng và chân thùng; bố vi che hành lang, trụ, lỗ trụ, và bức màn của cửa hành lang; các nọc của đền tạm, cùng nọc và dây của hành lang; bộ áo lễ dùng về công việc trong nơi thánh; bộ áo thánh cho Arôn, thầy tế lễ cả, và bộ áo cho các con trai người đặng làm chức tế lễ.
  27. “Xuất Êdíptô Ký 35:20-29”. Cả hội chúng Ysơraên bèn lui ra khỏi mặt Môise. Mọi người có lòng cảm động, và mọi người có lòng thành, đều đem lễ vật đến dâng cho Đức Giêhôva, để làm công việc hội mạc, các đồ phụ tùng và bộ áo thánh. Phàm người nam cùng nữ, tức mọi kẻ có lòng thành, đều đến đem những hoa tai, nhẫn, khâu, kiềng, các thứ trang sức bằng vàng, và hết thảy đều dâng lễ vật bằng vàng cho Đức Giêhôva. Kẻ nào ở nhà mình có chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, và da cá nược đều đem đến. Hễ ai có chi làm lễ vật bằng bạc hay bằng đồng, đều đem dâng cho Đức Giêhôva, và hễ ai có cây sitim nơi nhà mình dùng hiệp về các công việc tế lễ, đều đem đến. Phàm người đàn bà khéo thì chánh tay mình kéo chỉ lấy và đem đến món chi họ đã kéo rồi, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai mịn. Còn mấy người đàn bà có cảm động và tài khéo thì kéo chỉ lông dê. Các bực tôn trưởng trong dân sự đem bích ngọc và các thứ ngọc khác để khảm cho êphót và bảng đeo ngực; dầu thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và dầu thơm. Cả dân Ysơraên, nam hay nữ, phàm ai có lòng cảm động xui cho mình tình nguyện quyên vào các công việc Đức Giêhôva đã phán dặn nơi Môise, đều đem dâng cho Đức Giêhôva các lễ tình nguyện vậy.
  28. “Xuất Êdíptô Ký 35:30-36:7”. Nhưng mỗi buổi sớm mai, dân sự lại đem đến lễ vật tình nguyện nữa... đến nói cùng Môise rằng: Dân sự đem đến dư bội phần đặng làm các công việc mà Đức Giêhôva đã phán dặn. Theo lịnh truyền của Môise, họ bèn đi rao từ trại quân rằng: Bất kỳ người nam hay nữ, chớ làm công việc về lễ vật của nơi thánh nữa! Vậy họ cấm dân sự không cho đem đến chi thêm nữa hết. Vì đã đủ các vật liệu đặng làm hết thảy công việc, cho đến đỗi còn dư lại nữa.
  29. “Dân Số Ký 9:15”. Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.
  30. “Lêvi Ký 1:1”. Ðức Giêhôva từ trong hội mạc gọi Môise mà phán rằng:
  31. “Lêvi Ký 10:1-2”. Hai con trai Arôn, Nađáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết trước mặt Đức Giêhôva.
  32. “Lêvi Ký 16:1-2”. Sau khi hai con trai của Arôn chết trong lúc đến gần trước mặt Đức Giêhôva, thì Ngài phán cùng Môise, mà rằng: Hãy nói cùng Arôn, anh ngươi, chớ vào luôn luôn trong nơi thánh ở phía trong bức màn, trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng, e người phải chết chăng; vì ta ở trong mây hiện ra trên nắp thi ân.
  33. “Dân Số Ký 3:5-8”. Đức Giêhôva bèn phán cùng Môise rằng: Hãy khiến chi phái Lêvi lại gần, đặt trước thầy tế lễ Arôn, để người Lêvi phục sự người. Người Lêvi sẽ giữ chức phận của người và chức phận của cả hội chúng về trước hội mạc mà làm những công việc của đền tạm. Cũng phải coi sóc hết thảy đồ đạc của hội mạc và mọi vật chi dân Ysơraên giao cho đặng dùng làm công việc của đền tạm.
  34. “Dân Số Ký 18:21”. Còn về con cháu Lêvi, nầy ta đã ban cho làm cơ nghiệp, mọi thuế một phần mười của Ysơraên làm lương về công việc mình làm trong hội mạc.
  35. “Dân Số Ký 2:1-34”. Đức Giêhôva phán cùng Môise và Arôn rằng: Dân Ysơraên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở dưới bảng hiệu của tông tộc mình, đối ngang nhau vây chung quanh hội mạc. Trại quân Giuđa sẽ đóng tại hướng đông, về phía mặt trời mọc... Quan trưởng của người Giuđa... Chi phái Ysaca phải đóng trại bên Giuđa... Kế đến chi phái Sabulôn... Ngọn cờ của trại quân Rubên và những đội ngũ mình, phải đóng về hướng nam... Chi phái Simêôn phải đóng trại bên Rubên... Kế đến chi phái Gát... hội mạc sẽ đi với trại quân Lêvi, ở giữa các trại quân khác... Ngọn cờ của trại quân Épraim và những quân đội người phải đóng về hướng tây... Chi phái Manase phải đóng trại bên Épraim... Kế đến chi phái Bêngiamin... Ngọn cờ của trại quân Đan và những quân đội họ phải đóng về hướng bắc... Chi phái Ase phải đóng trại bên Đan... Kế đến chi phái Néptali... Nhưng người Lêvi không nhập sổ chung với dân Ysơraên, tùy theo mạng của Đức Giêhôva đã truyền cho Môise. Dân Ysơraên y theo mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn Môise, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình.
  36. “Giôsuê 18:1”. Cả hội chúng dân Ysơraên nhóm hiệp tại Silô, và lập hội mạc tại đó: xứ đều phục trước mặt họ.
  37. “Thi Thiên 122:1”. Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi rằng: Ta hãy đi đến nhà Ðức Giêhôva.
  38. “Thi Thiên 134:1-2”. Hỡi các tôi tớ Ðức Giêhôva, là kẻ ban đêm đứng tại nhà Ngài, Hãy ngợi khen Ðức Giêhôva! Hãy giơ tay lên hướng về nơi thánh, Và ngợi khen Ðức Giêhôva!
  39. “Thi Thiên 114:2”. Thì Giuđa trở nên đền thánh Ngài, Và Ysơraên thành nước Ngài.
  40. “Habacúc 2:20”. Nhưng Ðức Giêhôva ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãy làm thinh!
  41. “Xuất Êdíptô Ký 25:22”. Ta sẽ gặp ngươi tại đó, và ở trên nắp thi ân, giữa hai tượng chêrubim, trên hòm bảng chứng, ta sẽ truyền cho ngươi các mạng lịnh về dân Ysơraên.
  42. “Xuất Êdíptô Ký 31:7”. là hội mạc, hòm bảng chứng, nắp thi ân ở trên hòm, cùng đồ dùng trong hội mạc;
  43. “Xuất Êdíptô Ký 33:8”. Vừa khi Môise ra đến Trại, thì cả dân sự chỗi dậy, mỗi người đứng nơi cửa trại mình, ngó theo Môise cho đến khi nào người vào trong Trại rồi.
  44. “Dân Số Ký 11:26”. Có hai người ở lại trong trại quân; một người tên là Ênđát, một người tên là Mêđát, được Thần cảm động, nói tiên tri tại trại quân. Hai người nầy thuộc về bọn được biên tên, nhưng không có đến hội mạc.
  45. “Sáng Thế Ký 3:24”. Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Êđen các thần chêrubim với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.
  46. “II Samuên 6:6–7”. Khi đến sân đạp lúa của Nacôn, Uxa giơ tay lên nắm hòm của Đức Chúa Trời, bởi vì những con bò vấp ngã. Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva bèn nổi phừng cùng Uxa; Đức Chúa Trời hành hại người vì cớ lầm lỗi người, và người chết tại đó, gần bên hòm của Đức Chúa Trời.
  47. “Lêvi Ký 10:1-2”. Hai con trai Arôn, Nađáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết trước mặt Đức Giêhôva.
  48. “Mathiơ 19:17”. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Sao ngươi hỏi ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng lành mà thôi. Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các điều răn.
  49. “Hêbơrơ 9:22”. không đổ huyết thì không có sự tha thứ.
  50. “Hêbơrơ 10:19-20”. Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Ðức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài,
  51. “Khải Huyền 22:14”. Phước thay cho những kẻ giặt áo mình đặng có phép đến nơi cây sự sống và bởi các cửa mà vào trong thành!
  52. “Khải Huyền 7:14”. Tôi thưa rằng: Lạy chúa, chúa biết điều đó. Người lại phán cùng tôi rằng: Ðó là những kẻ ra khỏi cơn đại nạn, đã giặt và phiếu trắng áo mình trong huyết Chiên Con.