Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nơi thánh (đền tạm)”

Từ Từ điển tri thức Hội Thánh của Đức Chúa Trời
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Không có tóm lược sửa đổi
 
(Không hiển thị 6 phiên bản của 2 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
[[file:성소(성막) 모형.jpg|thumb|Nơi thánh (đền tạm)]]
{{그림 |성소(성막) 모형.jpg |너비= 300px |정렬=오른쪽섬네일 |타이틀=Nơi thánh (đền tạm)}}
'''성소'''(聖所, Sanctuary)는 '거룩한 장소'라는 뜻으로, [[하나님]]이 백성 중에 거하시는 '하나님의 [https://stdict.korean.go.kr/search/searchView.do?word_no=487788&searchKeywordTo=3 처소](處所)'다. 성소는 하나님의 [[하나님의 언약|언약]]의 말씀인 [[십계명]]을 보관하는 장소였고, 이스라엘 백성들의 죄 사함이 이루어지던 곳이었다. 외소(外所)와 내소(內所)로 분리된 구조였고, 최초의 성소는 이동이 가능한 천막 형태였기 때문에 '''성막'''이라고 불렸다. 나중에 고정식으로 지었을 때는 '''[[성전]]'''이라고 불렀다.
'''Nơi thánh''' (Sanctuary) có nghĩa là “địa điểm thánh”, “nơi ở của [[Đức Chúa Trời]]”, là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa dân sự. Nơi thánh là nơi bảo quản [[Mười Điều Răn]], tức lời [[Giao ước của Đức Chúa Trời|giao ước]] của Đức Chúa Trời, và là nơi diễn ra sự tha tội cho người dân Ysơraên. Cấu trúc nơi đây được phân chia thành nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Nơi thánh đầu tiên được dựng dưới hình thức lều tạm có thể di chuyển được, nên được gọi là '''đền tạm'''. Về sau, khi đã xây dựng cố định rồi thì được gọi là '''[[Đền thánh|đền thờ]]'''.
 
'''Nơi thánh''' (Sanctuary) có nghĩa là “địa điểm thánh”, “nơi ở của Đức Chúa Trời”, là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa dân sự. Nơi thánh là nơi bảo quản Mười Điều Răn, tức lời giao ước của Đức Chúa Trời, và là nơi diễn ra sự tha tội cho người dân Ysơraên. Cấu trúc nơi đây được phân chia thành nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Nơi thánh đầu tiên được dựng dưới hình thức lều tạm có thể di chuyển được, nên được gọi là '''đền tạm'''. Về sau, khi đã xây dựng cố định rồi thì được gọi là '''đền thờ'''.


==Tên gọi==
==Tên gọi==
[[구약성경]]에 성소는 '거룩한 것'을 뜻하는 히브리어 '미크다쉬(מִקְדָּשׁ)'<ref>[https://dict.naver.com/hbokodict/hebrew/#/entry/hboko/77789bd040d84fc09e353ea05120f930 "מִקְדָּשׁ"], 《네이버 고대 히브리어사전》</ref> 또는 '코데쉬(קֹדֶשׁ)'<ref>[https://dict.naver.com/hbokodict/hebrew/#/entry/hboko/d9c0fbfe677149408239ec4bc6ae7c91 "קֹדֶשׁ"], 《네이버 고대 히브리어사전》</ref>로 기록되어 있다. 성소는 하나님이 백성 중에 거하시는 곳<ref name="거할 성소">{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:8 |publisher= |quote= 내가 그들 중에 거할 성소를 그들을 시켜 나를 위하여 짓되}}</ref> 또는 하나님의 집<ref name="하나님의 집">{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/예레미야#51장 |title=예레미야 51:51 |publisher= |quote= 이방인이 여호와의 집 성소에 들어가므로}}</ref>이라 일컬어졌다.
Nơi thánh trong [[Kinh Thánh Cựu Ước]] được chép theo tiếng Hêbơrơ là “miqdash(מִקְדָּשׁ)'<ref>{{Cite web |url=https://biblehub.com/hebrew/4720.htm/ |title=4720. Miqdash or miqqedash |website=Bible Hub |date= |author= |page= |quote= }}</ref> hoặc “kodesh (קֹדֶשׁ)'<ref>{{Cite web |url=https://biblehub.com/hebrew/6944.htm/ |title= 6944. qodesh |website=Bible Hub |date=  |author= |page= |quote= }}</ref> có ý nghĩa là “nơi thánh khiết”. Nơi thánh được gọi là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa người dân của Ngài<ref name="거할 성소">{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:8 |publisher= |quote= Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ.|url-status=live}}</ref> hoặc nhà của Đức Chúa Trời.<ref name="하나님의 집">{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Giê-rê-mi/Chương_51 |title=Giêrêmi 51:51 |publisher= |quote= vì kẻ ngoại đã xâm vào nơi thánh của nhà Đức Giêhôva.|url-status=live}}</ref>
 
Nơi thánh trong thời đại Cựu Ước được chép theo tiếng Hêbơrơ là “miqdash(מִקְדָּשׁ)' hoặc “kodesh (קֹדֶשׁ)'có ý nghĩa là “nơi thánh khiết”. Nơi thánh được gọi là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa người dân của Ngài hoặc nhà của Đức Chúa Trời.<br>
'성소'라는 단어는 좁게는 외소, 넓게는 외소와 내소 모두를 가리키는데 내소는 지성소(至聖所, The Most Holy Place)라고도 불린다. 더 넓은 의미로는 외소와 내소가 위치한 구조물(성막)이나 건물(성전) 전체를 칭하기도 한다. 한편, 개역한글성경에서는 지성소를 성소로 번역하기도 했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/히브리서#10장 |title=히브리서 10:19-20 |publisher= |quote= 그러므로 형제들아 우리가 예수의 피를 힘입어 성소[NIV성경: the Most Holy Place(지성소)]에 들어갈 담력을 얻었나니 그 길은 우리를 위하여 휘장 가운데로 열어 놓으신 새롭고 산 길이요 휘장은 곧 저의 육체니라}}</ref> 성소를 지을 때 실을 꼬아서 만든 천막으로 지었기 때문에 이를 장막(帳幕)이나 성막(聖幕)이라고 했고, '만나는 곳'이라는 의미를 더해 회막(會幕, Tent of Meeting)이라고 부르기도 했다. 증거궤(언약궤)의 보관장소였기에 '증거막'으로 칭하기도 했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#9장 |title=민수기 9:15 |publisher= |quote= 성막을 세운 날에 구름이 성막 곧 증거막을 덮었고 저녁이 되면 성막 위에 불 모양 같은 것이 나타나서 아침까지 이르렀으되}}</ref>


Từ “nơi thánh” theo nghĩa hẹp là chỉ về phần nơi thánh ngoài, còn theo nghĩa rộng thì chỉ về toàn bộ phần bên ngoài lẫn bên trong. Nơi thánh trong còn được gọi là nơi chí thánh (至聖所, The Most Holy Place). Theo nghĩa rộng hơn, nơi thánh chỉ về toàn bộ công trình (đền tạm) hoặc tòa nhà (đền thờ) có đặt để nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Trong Kinh Thánh tiếng Hàn, nơi chí thánh cũng được dịch là nơi thánh. Khi dựng lên nơi thánh, người ta đã dựng như một cái lều được làm bởi các sợi chỉ xoắn, nên đã được gọi là lều tạm (帳幕) hay đền tạm (聖幕). Nơi đó còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting), làm tăng thêm ý nghĩa là “nơi gặp gỡ Đức Chúa Trời”. Vì là nơi bảo quản hòm bảng chứng (hòm giao ước) nên cũng được gọi là “đền tạm chứng cớ”.
Từ “nơi thánh” theo nghĩa hẹp là chỉ về phần nơi thánh ngoài, còn theo nghĩa rộng thì chỉ về toàn bộ phần bên ngoài lẫn bên trong. Nơi thánh trong còn được gọi là nơi chí thánh (至聖所, The Most Holy Place). Theo nghĩa rộng hơn, nơi thánh chỉ về toàn bộ công trình (đền tạm) hoặc tòa nhà (đền thờ) có đặt để nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Trong Kinh Thánh tiếng Hàn, nơi chí thánh cũng được dịch là nơi thánh.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Hê-bơ-rơ/Chương_10 |title=Hêbơrơ 10:19-20 |publisher= |quote= Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh [Kinh Thánh NIV: the Most Holy Place (nơi chí thánh)], bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài,|url-status=live}}</ref> Khi dựng lên nơi thánh, người ta đã dựng như một cái lều được làm bởi các sợi chỉ xoắn, nên đã được gọi là lều tạm (帳幕) hay đền tạm (聖幕). Nơi đó còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting), làm tăng thêm ý nghĩa là “nơi gặp gỡ Đức Chúa Trời”. Vì là nơi bảo quản hòm bảng chứng (hòm giao ước) nên cũng được gọi là “đền tạm chứng cớ”.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_9 |title=Dân Số Ký 9:15 |publisher= |quote= Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.|url-status=live}}</ref>


== Cấu tạo của nơi thánh ==
== Cấu tạo của nơi thánh ==
[[file:Tabernacle.png |thumb | 350px |Bản vẽ mô hình nơi thánh]]
[[file:Tabernacle.png |thumb | 350px |Bản vẽ mô hình nơi thánh]]
[[모세]]가 지은 성막은 전체 크기가 가로 50규빗, 세로 100규빗의 직사각형의 이동식 성전으로,<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#27장 |title=출애굽기 27:9-18 |publisher= |quote= 너는 성막의 뜰을 만들지니 ... 뜰의 장은 백 규빗이요 광은 오십 규빗이요}}</ref> 오늘날의 텐트와 유사하게 해체와 재설치가 가능한 구조였다. 이스라엘 백성은 [[광야 생활]]을 하고 있었던 터라 고정된 건물을 지을 수 없었기 때문이다.
Đền tạm mà [[Môise]] đã dựng là một đền thờ di động hình chữ nhật có kích thước tổng thể bề ngang 50 thước, bề dài 100 thước<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_27 |title=Xuất Êdíptô Ký 27:9-18 |publisher= |quote= Ngươi cũng hãy làm cái hành lang cho đền tạm... Bề dài của hành lang được một trăm thước, bề ngang, mỗi phía, năm chục thước.|url-status=live}}</ref> với kết cấu có thể tháo dỡ và lắp đặt lại tương tự như lán trại ngày nay. Vì khi ấy dân Ysơraên đang [[Cuộc sống đồng vắng|sinh hoạt trong đồng vắng]] nên không thể xây cất một tòa nhà cố định.  
 
Đền tạm mà Môise đã dựng là một đền thờ di động hình chữ nhật có kích thước tổng thể bề ngang 50 thước, bề dài 100 thước với kết cấu có thể tháo dỡ và lắp đặt lại tương tự như lán trại ngày nay. Vì khi ấy dân Ysơraên đang sinh hoạt trong đồng vắng nên không thể xây cất một tòa nhà cố định.<br>
성막 안에 위치한 가장 중요한 구조물인 성소는 하나로 보이는 외관과 달리, 내부는 휘장으로 앞칸(외소, The Holy Place)과 뒤칸(내소, 지성소, The Most Holy Place)이 분리되어 있었다. 성소를 세울 때는 정해진 방향이 있었는데 지성소가 있는 쪽, 곧 성소 뒷면이 서편, 출입구가 있는 앞면이 동편을 향하게 했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#26장 |title=출애굽기 26:22 |publisher= |quote= 성막 뒤 곧 그 서편을 위하여는 널판 여섯을 만들고}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#3장 |title=민수기 3:38 |publisher= |quote= 장막 앞 동편 곧 회막 앞 해 돋는 편에는 모세와 아론과 아론의 아들들이 진을 치고 이스라엘 자손의 직무를 대신하여 성소의 직무를 지킬 것이며 외인이 가까이 하면 죽일지니라}}</ref>


Nơi thánh là kiến trúc quan trọng nhất nằm bên trong đền tạm, khác với ngoại quan bên ngoài trông có vẻ như là một. Cấu trúc bên trong được phân chia thành hai phần: phía trước bức màn (nơi thánh ngoài, nơi thánh) và phần phía sau bức màn (nơi thánh trong, nơi chí thánh). Có phương hướng đã được định sẵn khi dựng nên nơi thánh. Ở phía có nơi chí thánh, tức mặt sau của nơi thánh là phía tây, còn mặt trước của lối ra vào hướng về phía đông.<br>
Nơi thánh là kiến trúc quan trọng nhất nằm bên trong đền tạm, khác với ngoại quan bên ngoài trông có vẻ như là một. Cấu trúc bên trong được phân chia thành hai phần: phía trước bức màn (nơi thánh ngoài, nơi thánh) và phần phía sau bức màn (nơi thánh trong, nơi chí thánh). Có phương hướng đã được định sẵn khi dựng nên nơi thánh. Ở phía có nơi chí thánh, tức mặt sau của nơi thánh là phía tây, còn mặt trước của lối ra vào hướng về phía đông.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_26 |title=Xuất Êdíptô Ký 26:22 |publisher= |quote= Ngươi cũng hãy làm sáu tấm ván về phía sau đền tạm, tức là về hướng tây.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_3 |title=Dân Số Ký 3:38 |publisher= |quote= Những người đóng trại trước đền tạm về phía đông, tức trước hội mạc về phía mặt trời mọc, là Môise, Arôn và các con trai người, có chức phận săn sóc nơi thánh thế cho dân Ysơraên. Người ngoại đến gần sẽ bị xử tử.|url-status=live}}</ref>
훗날 이동식 성막에서 고정식 성전으로 바뀌었지만, 기본 구조나 방향 등은 동일했다.  


Về sau, tuy đền tạm di động được thay đổi thành đền thờ cố định, nhưng cấu tạo cơ bản và phương hướng vẫn đồng nhất.  
Về sau, tuy đền tạm di động được thay đổi thành đền thờ cố định, nhưng cấu tạo cơ bản và phương hướng vẫn đồng nhất.  
 
{{인용문5 |내용= Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất. Vả, một đền tạm đã dựng lên: phần thứ nhứt gọi là nơi thánh, có chân đèn, bàn và bánh bày ra; rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh, có lư hương bằng vàng và hòm giao ước, toàn bọc bằng vàng. Trong hòm có một cái bình bằng vàng đựng đầy mana, cây gậy trổ hoa của Arôn, và hai bảng giao ước. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/Hê-bơ-rơ/Chương_9 Hêbơrơ 9:1-4]}}
{{인용문5 |내용= Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất. Vả, một đền tạm đã dựng lên: phần thứ nhứt gọi là nơi thánh, có chân đèn, bàn và bánh bày ra; rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh, có lư hương bằng vàng và hòm giao ước, toàn bọc bằng vàng. Trong hòm có một cái bình bằng vàng đựng đầy mana, cây gậy trổ hoa của Arôn, và hai bảng giao ước. |출처= [https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/히브리서#9장 Hêbơrơ 9:1-4]}}
=== Nơi thánh ngoài ===
=== Nơi thánh ngoài ===
[[file:외소 진설병 상 금촛대 분향단.jpg|thumb|Bàn bánh trần thiết – Chân đèn bằng vàng – Bàn thờ xông hương]]
{{그림 | 외소 진설병 상 금촛대 분향단_vi.jpg |너비= 300px |정렬=오른쪽섬네일 |타이틀=Bàn bánh trần thiết – Chân đèn bằng vàng – Bàn thờ xông hương}}
외소는 바깥 성소라는 뜻으로, 성소의 문에서 휘장 앞쪽까지의 공간이다. 진설병을 올려놓는 상, 금촛대(등대), 분향단이 있었다.
Phần bên ngoài nghĩa là nơi thánh phía ngoài, là không gian tính từ cửa nơi thánh đến phía trước bức màn. Trong đó có bàn để bánh trần thiết, chân đèn bằng vàng (chân đèn) và bàn thờ xông hương.<br>
* '''Bàn bánh trần thiết''': Chiếc bàn được làm bằng cây sitim, bề rộng hai thước, bề dài một thước và bề cao một thước rưỡi. Bàn được bọc bằng vàng ròng và chạy một đường viền chung quanh. Trên bàn luôn có [https://www.britannica.com/topic/shewbread bánh trần thiết] (陳設餠), và cũng đặt sẵn dĩa, chén, chậu, ly dùng làm lễ quán, đều được làm bằng vàng ròng. Bánh trần thiết được hấp bằng bột lọc không pha men, tổng cộng mười hai ổ bánh được sắp thành hai hàng, mỗi hàng sáu ổ đặt trên bàn. Bánh được thay mới vào mỗi [[ngày Sabát]]. Thầy tế lễ thượng phẩm và con cháu mình sẽ ăn bánh đã thay thế ấy trong hành lang của đền tạm.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:23-30 |publisher= |quote= Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn bằng cây sitim; bề dài hai thước, bề ngang một thước, và bề cao một thước rưỡi, bọc bằng vàng ròng, và chạy một đường viền chung quanh; rồi lên be cho tứ vi bàn, cao chừng bốn ngón tay và chạy cho be một đường viền vàng. Lại đúc bốn cái khoen vàng, tra vào bốn góc nơi chân bàn. Khoen sẽ ở gần be, để xỏ đòn khiêng bàn. Ngươi hãy chuốt đòn bằng cây sitim, bọc vàng, rồi người ta sẽ dùng khiêng bàn đó. Lại hãy lấy vàng ròng mà làm dĩa, chén, chậu, và ly đặng dùng làm lễ quán. Trên bàn ngươi sẽ để bánh trần thiết cho có luôn luôn trước mặt ta.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_24 |title=Lêvi Ký 24:8-9 |publisher= |quote=Mỗi ngày sabát, người ta sẽ sắp bánh nầy trước mặt Ðức Giêhôva luôn luôn, do nơi dân Ysơraên cung cấp; ấy là một giao ước đời đời. Các bánh đó sẽ thuộc về Arôn và các con trai người; họ phải ăn tại một nơi thánh, vì là vật chí thánh cho họ, bởi các của lễ dùng lửa dâng cho Ðức Giêhôva. Ấy là một lệ định đời đời. |url-status=live}}</ref>
* '''Chân đèn bằng vàng (chân đèn)''': Chân đèn có 7 nhánh, mỗi bên 3 nhánh và có đài như hình hoa hạnh nhân ở phía cuối. Thân đèn, đài, hoa, bầu, toàn bộ đều được làm bằng vàng và được liên kết lại thành một. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng được làm bằng vàng ròng.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:31-40 |publisher= |quote= Ngươi cũng hãy làm chân đèn bằng vàng ròng. Cái chân, cái thân, cái đài, cái bầu cùng cái hoa của đèn đều làm bằng vàng đánh dát. Hai bên thân đèn sẽ có sáu nhánh nứt ra, ba nhánh ở bên nầy và ba nhánh ở bên kia. Trong sáu nhánh nứt ra trên chân đèn, mỗi nhánh đều sẽ có ba cái đài hình như hột hạnh nhân cùng bầu và hoa. Trên thân chân đèn, lại cũng sẽ có bốn cái đài hình hột hạnh nhân, bầu và hoa. Trong sáu nhánh từ thân chân đèn nứt ra, hễ cứ mỗi hai nhánh thì dưới có một cái bầu. Bầu cùng nhánh của chân đèn đều bằng vàng ròng nguyên miếng đánh dát. Ngươi cũng hãy làm bảy cái thếp đèn, đặng hễ khi thắp thì chiếu trước chân đèn. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng sẽ bằng vàng ròng. Người ta sẽ dùng một talâng vàng ròng làm chân đèn nầy và các đồ phụ tùng của chân đèn. Vậy, ngươi hãy xem, cứ làm y như kiểu đã chỉ cho trên núi.|url-status=live}}</ref> Bảy cái thếp đèn đóng vai trò chiếu sáng phía trước chân đèn. Phải thắp đèn bằng dầu tinh khiết được ép từ quả ôlive, hầu cho đèn không tắt từ tối cho đến sáng, còn ban ngày thì không thắp đèn.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_27 |title=Xuất Êdíptô Ký 27:20-21 |publisher= |quote= Ngươi hãy truyền cho dân Ysơraên đem đến dầu lọc ôlive ép, đặng thắp đèn cho đèn sáng luôn luôn. Trong hội mạc, ở ngoài màn, trước hòm bảng chứng, Arôn cùng các con trai người sẽ lo sửa soạn đèn, hầu cho trước mặt Ðức Giêhôva đèn cháy luôn luôn từ tối cho đến sáng. Ấy là một luật đời đời cho dòng dõi dân Ysơraên phải giữ.|url-status=live}}</ref>
* '''Bàn thờ xông hương''': Bàn thờ có bề dài 1 thước, bề ngang 1 thước, bề cao 2 thước được làm bằng cây sitim. Có bốn sừng ló ra ở bốn góc phía trên, được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền vàng xung quanh tứ vi. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ xông hương vào buổi sáng và buổi tối.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_30 |title=Xuất Êdíptô Ký 30:1-10 |publisher= |quote= Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn thờ bằng cây sitim, để xông hương. Mặt bàn sẽ vuông, bề dài một thước, bề ngang một thước, và bề cao hai thước; bàn thờ sẽ có bốn sừng ló ra. Ngươi hãy bọc vàng ròng trên mặt, bốn cạnh chung quanh và các sừng; còn tứ vi chạy đường viền vàng. Dưới đường viền đó, nơi hai bên, hãy làm hai cái khoen bằng vàng, để xỏ đòn dùng đặng khiêng. Hãy chuốt đòn khiêng bằng cây sitim, bọc vàng. Ngươi sẽ để bàn thờ đó trước bức màn che hòm bảng chứng đối cùng nắp thi ân trên hòm, là nơi ta sẽ gặp ngươi. Mỗi buổi sớm mai, khi Arôn làm đèn, sẽ xông hương tại nơi đó. Vào lúc chiều tối, khi Arôn thắp đèn, cũng sẽ xông hương; ấy là một thứ hương phải xông trước mặt Đức Giêhôva luôn luôn, trải qua các đời. Trên bàn thờ nầy chớ xông hương lạ hoặc dâng của lễ thiêu, của lễ chay hay là lễ quán nào hết. Nhưng trải qua các đời, mỗi năm một lần, Arôn sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội, bôi trên sừng bàn thờ nầy đặng chuộc tội cho nó. Ấy sẽ là một việc rất thánh cho Đức Giêhôva.|url-status=live}}</ref>


Phần bên ngoài nghĩa là nơi thánh phía ngoài, là không gian tính từ cửa nơi thánh đến phía trước bức màn. Trong đó có bàn để bánh trần thiết, chân đèn bằng vàng (chân đèn) và bàn thờ xông hương.<br>
* '''진설병 상''': 조각목으로 만든 상으로 크기는 가로 2규빗, 세로 1규빗, 높이 1규빗 반이다. 정금으로 싸고 주위에 금테를 둘러 만들었다. 상에는 항상 [https://stdict.korean.go.kr/search/searchView.do?word_no=319367&searchKeywordTo=3 진설병](陳設餠)을 두었고 정금으로 된 대접, 숟가락, 병, 붓는 잔도 상 위에 놓았다. 진설병은 고운 가루에 누룩을 넣지 않고 구워 6개씩 두 줄로 총 12개가 상 위에 진설됐다. [[안식일]]마다 새 떡으로 교체했는데, 교체되어 나온 떡은 대제사장과 그 자손들이 성막 뜰에서 먹었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:23-30 |publisher= |quote= 너는 조각목으로 상을 만들되 장이 이 규빗, 광이 일 규빗, 고가 일 규빗 반이 되게 하고 정금으로 싸고 주위에 금테를 두르고 그 사면에 손바닥 넓이만 한 턱을 만들고 그 턱 주위에 금으로 테를 만들고 그것을 위하여 금고리 넷을 만들어 그 네발 위 네 모퉁이에 달되 턱 곁에 달라 이는 상 멜 채를 꿸 곳이며 또 조각목으로 그 채를 만들고 금으로 싸라 상을 이것으로 멜 것이니라 너는 대접과 숟가락과 병과 붓는 잔을 만들되 정금으로 만들지며 상 위에 진설병을 두어 항상 내 앞에 있게 할지니라}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#24장 |title=레위기 24:8-9 |publisher= |quote=항상 매 안식일에 이 떡을 여호와 앞에 진설할지니 이는 이스라엘 자손을 위한 것이요 영원한 언약이니라 이 떡은 아론과 그 자손에게 돌리고 그들은 그것을 거룩한 곳에서 먹을지니 이는 여호와의 화제 중 그에게 돌리는 것으로서 지극히 거룩함이니라 이는 영원한 규례니라 }}</ref>
* '''Bàn bánh trần thiết''': Chiếc bàn được làm bằng cây sitim, bề rộng hai thước, bề dài một thước và bề cao một thước rưỡi. Bàn được bọc bằng vàng ròng và chạy một đường viền chung quanh. Trên bàn luôn có bánh trần thiết (陳設餠), và cũng đặt sẵn dĩa, chén, chậu, ly dùng làm lễ quán, đều được làm bằng vàng ròng. Bánh trần thiết được hấp bằng bột lọc không pha men, tổng cộng mười hai ổ bánh được sắp thành hai hàng, mỗi hàng sáu ổ đặt trên bàn. Bánh được thay mới vào mỗi ngày Sabát. Thầy tế lễ thượng phẩm và con cháu mình sẽ ăn bánh đã thay thế ấy trong hành lang của đền tạm.
* '''금촛대(등대)''': 촛대는 양옆으로 각각 3개씩 총 7개의 가지와 그 끝에 살구꽃 형상의 잔이 달려 있었다. 줄기, 잔, 꽃, 꽃받침이 전부 금으로 만들어졌고 하나로 연결되어 있었다. 정금으로 만들어진 불집게와 불똥 그릇도 있었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:31-40 |publisher= |quote= 너는 정금으로 등대를 쳐서 만들되 그 밑판과 줄기와 잔과 꽃받침과 꽃을 한 덩이로 연하게 하고 가지 여섯을 등대 곁에서 나오게 하되 그 세 가지는 이편으로 나오고 그 세 가지는 저편으로 나오게 하며 이편 가지에 살구꽃 형상의 잔 셋과 꽃받침과 꽃이 있게 하고 저편 가지에도 살구꽃 형상의 잔 셋과 꽃받침과 꽃이 있게 하여 등대에서 나온 여섯 가지를 같게 할지며 등대 줄기에는 살구꽃 형상의 잔 넷과 꽃받침과 꽃이 있게 하고 등대에서 나온 여섯 가지를 위하여 꽃받침이 있게 하되 두 가지 아래 한 꽃받침이 있어 줄기와 연하게 하며 또 두 가지 아래 한 꽃받침이 있어 줄기와 연하게 하며 또 두 가지 아래 한 꽃받침이 있어 줄기와 연하게 하고 그 꽃받침과 가지를 줄기와 연하게 하여 전부를 정금으로 쳐 만들고 등잔 일곱을 만들어 그 위에 두어 앞을 비추게 하며 그 불집게와 불똥 그릇도 정금으로 만들지니 등대와 이 모든 기구를 정금 한 달란트로 만들되 너는 삼가 이 산에서 네게 보인 식양대로 할지니라}}</ref> 7개의 등잔은 앞을 비추는 역할을 했다. 올리브를 찧어 낸 순결한 기름으로 등불을 켜되, 아침에는 끄고 저녁 동안에는 꺼지지 않게 했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#27장 |title=출애굽기 27:20-21 |publisher= |quote= 너는 또 이스라엘 자손에게 명하여 감람으로 찧어낸 순결한 기름을 등불을 위하여 네게로 가져오게 하고 끊이지 말고 등불을 켜되 아론과 그 아들들로 회막안 증거궤 앞 휘장 밖에서 저녁부터 아침까지 항상 여호와 앞에 그 등불을 간검하게 하라 이는 이스라엘 자손의 대대로 영원한 규례니라}}</ref>
* '''Chân đèn bằng vàng (chân đèn)''': Chân đèn có 7 nhánh, mỗi bên 3 nhánh và có đài như hình hoa hạnh nhân ở phía cuối. Thân đèn, đài, hoa, bầu, toàn bộ đều được làm bằng vàng và được liên kết lại thành một. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng được làm bằng vàng ròng. Bảy cái thếp đèn đóng vai trò chiếu sáng phía trước chân đèn. Phải thắp đèn bằng dầu tinh khiết được ép từ quả ôlive, hầu cho đèn không tắt từ tối cho đến sáng, còn ban ngày thì không thắp đèn.
* '''분향단''': 조각목으로 만든 길이 1규빗, 너비 1규빗, 높이 2규빗의 단이다. 윗면 네 모퉁이에 뿔이 있게 만들었고 정금으로 싸고 금테를 둘렀다. 아침저녁으로 대제사장이 향기로운 향을 살랐다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#30장 |title=출애굽기 30:1-10 |publisher= |quote= 너는 분향할 단을 만들지니 곧 조각목으로 만들되 장이 일 규빗, 광이 일 규빗으로 네모반듯하게 하고 고는 이 규빗으로 하며 그 뿔을 그것과 연하게 하고 단 상면과 전후 좌우면과 뿔을 정금으로 싸고 주위에 금테를 두를지며 금테 아래 양편에 금고리 둘을 만들되 곧 그 양편에 만들지니 이는 단을 메는 채를 꿸 곳이며 그 채를 조각목으로 만들고 금으로 싸고 그 단을 증거궤 위 속죄소 맞은편 곧 증거궤 앞에 있는 장 밖에 두라 그 속죄소는 내가 너와 만날 곳이며 아론이 아침마다 그 위에 향기로운 향을 사르되 등불을 정리할 때에 사를지며 또 저녁 때 등불을 켤 때에 사를지니 이 향은 너희가 대대로 여호와 앞에 끊지 못할지며 너희는 그 위에 다른 향을 사르지 말며 번제나 소제를 드리지 말며 전제의 술을 붓지 말며 아론이 일년 일차씩 이 향단 뿔을 위하여 속죄하되 속죄제의 피로 일년 일차씩 대대로 속죄할지니라 이 단은 여호와께 지극히 거룩하니라}}</ref>
* '''Bàn thờ xông hương''': Bàn thờ có bề dài 1 thước, bề ngang 1 thước, bề cao 2 thước được làm bằng cây sitim. Có bốn sừng ló ra ở bốn góc phía trên, được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền vàng xung quanh tứ vi. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ xông hương vào buổi sáng và buổi tối.
=== Nơi thánh trong (Nơi chí thánh) ===
=== Nơi thánh trong (Nơi chí thánh) ===
[[file:증거궤(언약궤).jpg|thumb|Sơ đồ mô hình hòm giao ước. Phần đậy trên hòm giao ước chính là nắp thi ân.]]
{{그림 |증거궤(언약궤).jpg |너비= 300px |정렬=오른쪽섬네일 |타이틀=Sơ đồ mô hình hòm giao ước. Phần đậy trên hòm giao ước chính là nắp thi ân.}}
휘장 뒤 안쪽 공간으로, 가로·세로·높이가 모두 같은 정육면체 구조다. 내소는 [[십계명]]을 보관하는 [[언약궤]]가 있는 곳, '지극히 거룩한 장소'라 해서 '[[지성소]]'로 불렸다. 지성소 안에는 아무나 들어갈 수 없었고, 기름 부음을 받은 '''대제사장만이 1년에 한 차례''' '''[[대속죄일]]에 속죄 제물을 힘입어''' 들어갈 수 있었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#16장 |title=레위기 16:6-34 |publisher= |quote=이 날[대속죄일]에 너희를 위하여 속죄하여 너희로 정결케 하리니 너희 모든 죄에서 너희가 여호와 앞에 정결하리라 ... 그 기름부음을 받고 위임되어 그 아비를 대신하여 제사장의 직분을 행하는 제사장[대제사장]은 속죄하되 세마포 옷 곧 성의를 입고 지성소를 위하여 속죄하며 회막과 단을 위하여 속죄하고 또 제사장들과 백성의 회중을 위하여 속죄할지니 이는 너희의 영원히 지킬 규례라 이스라엘 자손의 모든 죄를 위하여 일년 일차 속죄할 것이니라 아론이 여호와께서 모세에게 명하신 대로 행하니라}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/히브리서#9장 |title=히브리서 9:1-7 |publisher= |quote= 첫 언약에도 섬기는 예법과 세상에 속한 성소가 있더라 ... 또 둘째 휘장 뒤에 있는 장막을 지성소라 일컫나니 ... 그 위에 속죄소를 덮는 영광의 그룹들이 있으니 ... 오직 둘째 장막은 대제사장이 홀로 일년 일차씩 들어가되 피 없이는 아니하나니 이 피는 자기와 백성의 허물을 위하여 드리는 것이라}}</ref>
Đây là không gian bên trong phía sau bức màn, được tạo thành hình vuông có bề dài, bề ngang, bề cao bằng nhau. Bên trong là nơi có [[hòm giao ước]] đang bảo quản [[Mười Điều Răn]], vì là “nơi vô cùng thánh khiết” nên được gọi là “[[nơi chí thánh]]”. Không ai được phép đi vào nơi chí thánh, '''duy chỉ thầy tế lễ thượng phẩm''' được xức dầu mới có thể đi vào nơi chí thánh '''mỗi năm một lần''' '''vào''' '''[[Đại Lễ Chuộc Tội]]''' '''trong khi mang theo của lễ chuộc tội'''.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_16 |title=Lêvi Ký 16:6-34 |publisher= |quote=vì trong ngày đó [Đại Lễ Chuộc Tội] người ta sẽ làm lễ chuộc tội cho các ngươi, để các ngươi được tinh sạch: chắc các ngươi sẽ được sạch những tội lỗi mình trước mặt Đức Giêhôva vậy... Thầy tế lễ [thầy tế lễ thượng phẩm] đã được phép xức dầu và lập làm chức tế lễ thế cho cha mình, sẽ mặc lấy bộ áo vải gai, tức là bộ áo thánh, mà làm lễ chuộc tội. Người sẽ chuộc tội cho nơi thánh, cho hội mạc, cho bàn thờ, cho những thầy tế lễ, và cho cả dân của hội chúng. Mỗi năm một lần phải làm lễ chuộc tội cho dân Ysơraên, đặng làm cho sạch các tội lỗi của chúng; ấy sẽ là một lệ định đời đời cho các ngươi vậy. Arôn làm y như Đức Giêhôva đã phán dặn Môise.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Hê-bơ-rơ/Chương_9 |title=Hêbơrơ 9:1-7 |publisher= |quote= Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất... rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh... phía trên có hai chêrubim vinh hiển, bóng nó che phủ nơi chuộc tội... nhưng, phần thứ hai, thì mỗi năm một lần chỉ một mình thầy tế lễ thượng phẩm vào, chẳng bao giờ mà không đem huyết dâng vì chính mình và vì sự lầm lỗi dân chúng.|url-status=live}}</ref>
 
* '''Bức màn''': Được thêu hình chêrubim, dùng làm tấm màn phân biệt nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Để đi vào nơi thánh trong từ bên ngoài thì nhất định phải đi qua bức màn.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_26 |title=Xuất Êdíptô Ký 26:31-33 |publisher= |quote= Ngươi hãy làm một bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, có thêu những hình chêrubim cực xảo; rồi xủ màn đó trên bốn trụ bằng cây sitim, bọc vàng, dựng trên bốn lỗ trụ bằng bạc; các móc trụ đều bằng vàng. Ngươi sẽ treo màn đó vào móc dưới bức bong, rồi ở phía trong màn để hòm bảng chứng; màn nầy dùng phân biệt cho các ngươi nơi thánh và nơi chí thánh. Đoạn, hãy để cái nắp thi ân trên hòm bảng chứng, đặt trong nơi chí thánh.|url-status=live}}</ref>
Đây là không gian bên trong phía sau bức màn, được tạo thành hình vuông có bề dài, bề ngang, bề cao bằng nhau. Bên trong là nơi có hòm giao ước đang bảo quản Mười Điều Răn, vì là “nơi vô cùng thánh khiết” nên được gọi là “nơi chí thánh”. Không ai được phép đi vào nơi chí thánh, '''duy chỉ thầy tế lễ thượng phẩm''' được xức dầu mới có thể đi vào nơi chí thánh '''mỗi năm một lần''' vào '''Đại Lễ Chuộc Tội''' '''trong khi mang theo của lễ chuộc tội'''.
* '''Hòm giao ước''': Hòm giao ước là phần quan trọng nhất trong số các khí dụng của đền tạm. Hòm được làm bằng cây sitim có bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao một thước rưỡi. Hòm được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền chung quanh bằng vàng. Có bốn cái khoen vàng, và cây đòn được làm bằng vàng xỏ vào khoen để khiêng hòm. Bảng chứng cớ (bảng đá Mười Điều Răn) được đặt trong hòm giao ước.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:10-16 |publisher= |quote= Vậy, chúng hãy đóng một cái hòm bằng cây sitim; bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao cũng một thước rưỡi, lấy vàng ròng bọc trong, bọc ngoài, và chạy đường viền chung quanh hòm bằng vàng. Ngươi cũng hãy đúc bốn khoen bằng vàng để tại bốn góc hòm: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia, cùng làm hai cây đòn bằng cây sitim, bọc vàng; rồi lòn đòn vào khoen hai bên hông hòm, để dùng đòn khiêng hòm. Đòn sẽ ở trong khoen luôn, không nên rút ra. Ngươi hãy cất vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho.|url-status=live}}</ref>
* '''휘장''': 외소와 내소를 구분 짓는 장으로 그룹들이 수놓아져 있었다. 외소에서 내소로 들어가기 위해서는 반드시 휘장을 거쳐야 했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#26장 |title=출애굽기 26:31-33 |publisher= |quote= 너는 청색 자색 홍색실과 가늘게 꼰 베실로 짜서 장을 만들고 그 위에 그룹들을 공교히 수놓아서 금 갈고리로 네 기둥 위에 드리우되 그 네 기둥을 조각목으로 만들고 금으로 싸서 네 은받침 위에 둘지며 그 장을 갈고리 아래 드리운 후에 증거궤를 그 장 안에 들여놓으라 그 장이 너희를 위하여 성소와 지성소를 구별하리라}}</ref>
* '''Nắp thi ân''': Phần để đậy trên hòm giao ước được gọi là “nắp thi ân (贖罪所)”. Đức Chúa Trời đã phán rằng Ngài sẽ gặp gỡ Môise giữa hai chêrubim ở trên nắp thi ân. Hai chêrubim này biểu tượng cho các chêrubim đang canh giữ cây sự sống trong vườn Êđên. Tại đây, [[sự tha tội]] được diễn ra và ân huệ của Đức chúa Trời được ban xuống. Nắp thi ân còn được gọi là “nơi chuộc tội (施恩座, nơi ban ân điển)”.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:17-21 |publisher= |quote=Ngươi cũng hãy làm một cái nắp thi ân [chú giải: ngôi thương xót] bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. Lại làm hai tượng chêrubim bằng vàng dát mỏng, để hai đầu nắp thi ân, ló ra ngoài, một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia. Hai chêrubim sẽ sè cánh ra, che trên nắp thi ân, đối diện nhau và xây mặt vào nắp thi ân. Ngươi hãy để nắp thi ân trên hòm, rồi để vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho.|url-status=live}}</ref>
* '''Bức màn''': Được thêu hình chêrubim, dùng làm tấm màn phân biệt nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Để đi vào nơi thánh trong từ bên ngoài thì nhất định phải đi qua bức màn.
* '''언약궤''': 성막의 기구 중에서 가장 중요한 부분인 언약궤는 조각목으로 만든 길이 2규빗 반, 너비 1규빗 반, 높이 1규빗 반의 궤다. 정금으로 싸고 금테를 둘렀다. 금고리 넷이 달렸고, 금으로 된 채를 고리에 꿰어 메게 했다. 언약궤 속에 증거판(십계명 돌비)을 두었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:10-16 |publisher= |quote= 그들은 조각목으로 궤를 짓되 장이 이 규빗 반, 광이 일 규빗 반, 고가 일 규빗 반이 되게 하고 너는 정금으로 그것을 싸되 그 안팎을 싸고 윗가로 돌아가며 금테를 두르고 금고리 넷을 부어 만들어 그 네발에 달되 이편에 두 고리요 저편에 두 고리며 조각목으로 채를 만들고 금으로 싸고 그 채를 궤 양편 고리에 꿰어서 궤를 메게 하며 채를 궤의 고리에 꿴 대로 두고 빼어내지 말지며 내가 네게 줄 증거판을 궤 속에 둘지며}}</ref>  
* '''Hòm giao ước''': Hòm giao ước là phần quan trọng nhất trong số các khí dụng của đền tạm. Hòm được làm bằng cây sitim có bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao một thước rưỡi. Hòm được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền chung quanh bằng vàng. Có bốn cái khoen vàng, và cây đòn được làm bằng vàng xỏ vào khoen để khiêng hòm. Bảng chứng cớ (bảng đá Mười Điều Răn) được đặt trong hòm giao ước.
* '''속죄소''': 언약궤를 덮는 부분을 '속죄소(贖罪所)'라고 불렀다. 하나님은 속죄소 위 두 그룹 사이에서 모세를 만나겠다고 말씀하셨다. 이 그룹들은 에덴동산에서 생명나무를 지키고 있던 그룹들을 표상한다. 이곳에서 [[죄 사함]]이 이루어지고 하나님의 은혜가 내렸다. 속죄소는 다른 말로 '시은좌(施恩座, 은혜를 베푸는 자리)'라고도 칭한다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:17-21 |publisher= |quote=정금으로 속죄소[난하주:시은좌]를 만들되 장이 이 규빗 반, 광이 일 규빗 반이 되게 하고 금으로 그룹 둘을 속죄소 두 끝에 쳐서 만들되 한 그룹은 이 끝에, 한 그룹은 저 끝에 곧 속죄소 두 끝에 속죄소와 한 덩이로 연하게 할지며 그룹들은 그 날개를 높이 펴서 그 날개로 속죄소를 덮으며 그 얼굴을 서로 대하여 속죄소를 향하게 하고 속죄소를 궤 위에 얹고 내가 네게 줄 증거판을 궤 속에 넣으라}}</ref>
* '''Nắp thi ân''': Phần để đậy trên hòm giao ước được gọi là “nắp thi ân (贖罪所)”. Đức Chúa Trời đã phán rằng Ngài sẽ gặp gỡ Môise giữa hai chêrubim ở trên nắp thi ân. Hai chêrubim này biểu tượng cho các chêrubim đang canh giữ cây sự sống trong vườn Êđên. Tại đây, sự tha tội được diễn ra và ân huệ của Đức chúa Trời được ban xuống. Nắp thi ân còn được gọi là “nơi chuộc tội (施恩座, nơi ban ân điển)”.


=== Hành lang đền tạm ===
=== Hành lang đền tạm ===
[[file:물두멍과 번제단.jpg|thumb|Cái thùng bằng đồng và bàn thờ của lễ thiêu]]
{{그림 | 물두멍과 번제단_vi.jpg |너비= 300px |정렬=오른쪽섬네일 |타이틀=Cái thùng bằng đồng và bàn thờ của lễ thiêu}}
성막 문(동문)을 통해 안으로 들어가면 나타나는 넓은 공간이다. 성막 뜰은 60개의 기둥과 300규빗의 세마포장으로 울타리가 쳐 있었다. 기둥의 높이가 5규빗(약 2.25m)이었기 때문에 성막 문을 통하지 않고는 안에서 이루어지는 일을 볼 수 없었다.
 
Khi đi vào bên trong thông qua cánh cửa đền tạm (cánh cửa phía đông) sẽ thấy một không gian rộng lớn. Hành lang của đền tạm được dựng hàng rào bằng 300 thước vải gai đậu mịn và 60 cây trụ. Chiều cao của cây trụ là 5 thước (khoảng 2,25m), nên sẽ không thể nhìn thấy những gì đang diễn ra bên trong nếu không đi qua cửa đền tạm.
Khi đi vào bên trong thông qua cánh cửa đền tạm (cánh cửa phía đông) sẽ thấy một không gian rộng lớn. Hành lang của đền tạm được dựng hàng rào bằng 300 thước vải gai đậu mịn và 60 cây trụ. Chiều cao của cây trụ là 5 thước (khoảng 2,25m), nên sẽ không thể nhìn thấy những gì đang diễn ra bên trong nếu không đi qua cửa đền tạm.
* '''번제단''': 하나님께 제사를 드리기 위해 놋으로 만든 단이다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#27장 |title=출애굽기 27:1-8 |publisher= |quote= 너는 조각목으로 장이 오 규빗, 광이 오 규빗의 단을 만들되 네모반듯하게 하며 고는 삼 규빗으로 하고 그 네 모퉁이 위에 뿔을 만들되 그 뿔이 그것에 연하게 하고 그 단을 놋으로 쌀지며 재를 담는 통과 부삽과 대야와 고기 갈고리와 불 옮기는 그릇을 만들되 단의 그릇을 다 놋으로 만들지며 단을 위하여 놋으로 그물을 만들고 그 위 네 모퉁이에 놋고리 넷을 만들고 그물은 단 사면 가장자리 아래 곧 단 절반에 오르게 할지며 또 그 단을 위하여 채를 만들되 조각목으로 만들고 놋으로 쌀지며 단 양편 고리에 그 채를 꿰어 단을 메게 할지며 단은 널판으로 비게 만들되 산에서 네게 보인 대로 그들이 만들지니라}}</ref> 제사장들이 성소 안으로 나아가 분향하기 위해서는 번제단에 있는 불을 가지고 들어가야 했다.<ref name="불1">{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#16장 |title=민수기 16:42-46 |publisher= |quote= 회중이 모여 모세와 아론을 칠 때에 회막을 바라본즉 구름이 회막을 덮었고 여호와의 영광이 나타났더라 모세와 아론이 회막 앞에 이르매 여호와께서 모세에게 일러 가라사대 너희는 이 회중에게서 떠나라 내가 순식간에 그들을 멸하려 하노라 하시매 그 두 사람이 엎드리니라 이에 모세가 아론에게 이르되 너는 향로를 취하고 단[번제단]의 불을 그것에 담고 그 위에 향을 두어가지고 급히 회중에게로 가서 그들을 위하여 속죄하라 여호와께서 진노하셨으므로 염병이 시작되었음이니라}}</ref><ref name="불2">{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#16장 |title=레위기 16:12 |publisher= |quote= 향로를 취하여 여호와 앞 단[번제단] 위에서 피운 불을 그것에 채우고 또 두 손에 곱게 간 향기로운 향을 채워 가지고}}</ref>
* '''Bàn thờ của lễ thiêu''': Là bàn thờ được làm bằng đồng để dâng tế lễ lên Đức Chúa Trời.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_27 |title=Xuất Êdíptô Ký 27:1-8 |publisher= |quote= Ngươi cũng hãy đóng một bàn thờ bằng cây sitim, hình vuông, năm thước bề dài, năm thước bề ngang, và bề cao ba thước. Nơi bốn góc bàn thờ hãy làm sừng ló ra và bọc đồng. Những đồ phụ tùng của bàn thờ thì hãy làm bằng đồng: bình đựng tro, vá, ảng, nỉa và bình hương. Lại làm cho bàn thờ một tấm rá bằng lưới đồng; và nơi bốn góc rá làm bốn cái khoen bằng đồng; rồi để rá đó dưới thành bàn thờ, từ dưới chân lên đến nửa bề cao. Cũng hãy chuốt đòn khiêng bàn thờ bằng cây sitim, bọc đồng, rồi xỏ vào những khoen; khi khiêng đi, đòn sẽ ở hai bên bàn thờ. Bàn thờ sẽ đóng bằng ván, trống bộng, làm y như đã chỉ cho ngươi trên núi vậy.|url-status=live}}</ref> Để tiến vào trong nơi thánh để dâng hương, các thầy tế lễ phải đi vào trong khi mang theo lửa từ bàn thờ của lễ thiêu.<ref name="불1">{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_16 |title=Dân Số Ký 16:42-46 |publisher= |quote= Khi hội chúng đương hiệp nhau nghịch cùng Môise và Arôn, thì ngó về hướng hội mạc, xảy thấy trụ mây bao phủ hội mạc, và sự vinh quang của Đức Giêhôva hiện ra. Môise và Arôn đến đứng trước hội mạc, Đức Giêhôva phán cùng Môise rằng: Hãy dang ra khỏi giữa hội chúng nầy, thì ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát. Nhưng hai người sấp mặt xuống đất, rồi Môise nói cùng Arôn rằng: Hãy cầm lấy lư hương để lửa từ trên bàn thờ [bàn thờ của lễ thiêu] vào, bỏ hương lên trên, mau mau đi đến hội chúng và làm lễ chuộc tội cho họ; vì sự thạnh nộ của Ðức Giêhôva đã nổi lên, và tai vạ đã phát khởi.|url-status=live}}</ref><ref name="불2">{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_16 |title=Lêvi Ký 16:12 |publisher= |quote= đoạn lấy lư hương đầy than hực đỏ trên bàn thờ [bàn thờ của lễ thiêu] trước mặt Ðức Giêhôva, và một vốc hương bột, mà đem vào phía trong bức màn.|url-status=live}}</ref>
* '''Bàn thờ của lễ thiêu''': Là bàn thờ được làm bằng đồng để dâng tế lễ lên Đức Chúa Trời. Để tiến vào trong nơi thánh để dâng hương, các thầy tế lễ phải đi vào trong khi mang theo lửa từ bàn thờ của lễ thiêu.
* '''Thùng đựng nước''': Là cái thùng chứa nước để rửa tay và chân. Thùng đựng nước được đặt giữa khoảng bàn thờ của lễ thiêu của đền tạm và cửa ra vào, các [[thầy tế lễ]] sẽ rửa tay và chân mình trong đó trước khi đi vào nơi thánh.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_30 |title=Xuất Êdíptô Ký 30:17-22 |publisher= |quote= Đức Giêhôva lại phán cùng Môise nữa rằng: Ngươi hãy làm một cái thùng với chân thùng bằng đồng, đặng rửa mình ở trong, rồi để giữa khoảng của hội mạc và bàn thờ, và đổ nước vào. Arôn cùng các con trai người sẽ rửa tay và chân mình ở trong. Khi họ vào hội mạc sẽ lấy nước rửa mình, hầu cho họ khỏi chết; và khi lại gần bàn thờ đặng phụng sự, tức là xông của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giêhôva, họ cũng phải giữ như vậy. Thế thì, họ hãy rửa tay và chân, hầu cho khỏi chết. Ấy là một lệ đời đời cho Arôn cùng dòng dõi người trải qua các đời.|url-status=live}}</ref>
* '''물두멍''': 수족(手足)을 씻기 위해 물을 담아둔 대야다. 성막의 번제단과 출입문 사이에 놓여 있었고 [[제사장]]들이 성소에 들어가기 전에 손과 발을 씻었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#30장 |title=출애굽기 30:17-22 |publisher= |quote= 여호와께서 모세에게 일러 가라사대 너는 물두멍을 놋으로 만들고 그 받침도 놋으로 만들어 씻게 하되 그것을 회막과 단 사이에 두고 그 속에 물을 담으라 아론과 그 아들들이 그 두멍에서 수족을 씻되 그들이 회막에 들어갈 때에 물로 씻어 죽기를 면할 것이요 단에 가까이 가서 그 직분을 행하여 화제를 여호와 앞에 사를 때에도 그리할지니라 이와 같이 그들이 그 수족을 씻어 죽기를 면할지니 이는 그와 그 자손이 대대로 영원히 지킬 규례니라}}</ref>
* '''Thùng đựng nước''': cái thùng chứa nước để rửa tay và chân. Thùng đựng nước được đặt giữa khoảng bàn thờ của lễ thiêu của đền tạm và cửa ra vào, các thầy tế lễ sẽ rửa tay và chân mình trong đó trước khi đi vào nơi thánh.


== Nơi thánh và lịch sử Ysơraên ==
== Nơi thánh và lịch sử Ysơraên ==
[[file:Kitto Setting Up the Tabernacle.jpg |thumb | 250px |Cảnh dựng nên đền tạm]]
[[file:Kitto Setting Up the Tabernacle.jpg |thumb | 250px |Cảnh dựng nên đền tạm]]
[[file:Holman The Tabernacle.jpg|thumb | 250px | Vào ban ngày, trụ mây ở phía trên nơi thánh, còn ban đêm là trụ lửa để cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời.]]
[[file:Holman The Tabernacle.jpg|thumb | 250px | Vào ban ngày, trụ mây ở phía trên nơi thánh, còn ban đêm là trụ lửa để cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời.]]
모세가 시내산에서 [[십계명]]이 적힌 돌판을 받을 때 하나님은 그에게 하늘에 있는 성막을 보여주셨다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:1-9 |publisher= |quote= 여호와께서 모세에게 일러 가라사대 ... 내가 그들 중에 거할 성소를 그들을 시켜 나를 위하여 짓되 무릇 내가 네게 보이는 대로 장막의 식양과 그 기구의 식양을 따라 지을지니라}}</ref><ref name="히 8:5">{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/히브리서#8장 |title=히브리서 8:5 |publisher= |quote=저희가 섬기는 것은 하늘에 있는 것의 모형과 그림자라 모세가 장막을 지으려 할 때에 지시하심을 얻음과 같으니 가라사대 삼가 모든 것을 산에서 네게 보이던 본을 좇아 지으라 하셨느니라}}</ref> 산에서 내려온 모세는 백성에게 하나님의 말씀을 전하고 성막 건축을 위해서는 금, , , 조각목 등 다양한 예물이 필요하며 성막과 기구 등을 만들 지혜로운 사람이 필요하다고 말했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#35장 |title=출애굽기 35:4-19 |publisher= |quote= 모세가 이스라엘 자손의 온 회중에게 고하여 가로되 여호와의 명하신 일이 이러하니라 이르시기를 너희의 소유 중에서 너희는 여호와께 드릴 것을 취하되 무릇 마음에 원하는 자는 그것을 가져다가 여호와께 드릴지니 곧 금과 은과 놋과 청색 자색 홍색실과 가는 베실과 염소털과 붉은 물 들인 수양의 가죽과 해달의 가죽과 조각목과 등유와 및 관유에 드는 향품과 분향할 향을 만드는 향품과 호마노며 에봇과 흉패에 물릴 보석이니라 무릇 너희 중 마음이 지혜로운 자는 와서 여호와의 명하신 것을 다 만들지니 곧 성막과 그 막과 그 덮개와 그 갈고리와 그 널판과 그 띠와 그 기둥과 그 받침과 증거궤와 그 채와 속죄소와 그 가리는 장과 상과 그 채와 그 모든 기구와 진설병과 불 켜는 등대와 그 기구와 그 등잔과 등유와 분향단과 그 채와 관유와 분향할 향품과 성막문의 장과 번제단과 그 놋 그물과 그 채와 그 모든 기구와 물두멍과 그 받침과 뜰의 포장과 그 기둥과 그 받침과 뜰문의 장과 장막 말뚝과 뜰의 포장 말뚝과 그 줄과 성소에서 섬기기 위하여 공교히 만든 옷 곧 제사 직분을 행할 때에 입는 제사장 아론의 거룩한 옷과 그 아들들의 옷이니라}}</ref> 이스라엘 백성 중 자원하는 자들이 필요한 예물을 즐거이 가져왔는데,<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#35장 |title=출애굽기 35:20-29 |publisher= |quote= 이스라엘 자손의 온 회중이 모세 앞에서 물러갔더니 무릇 마음이 감동된 자와 무릇 자원하는 자가 와서 성막을 짓기 위하여 그 속에서 쓸 모든 것을 위하여, 거룩한 옷을 위하여 예물을 가져 여호와께 드렸으니 곧 마음에 원하는 남녀가 와서 가슴 핀과 귀고리와 가락지와 목거리와 여러가지 금품을 가져 왔으되 사람마다 여호와께 금 예물을 드렸으며 무릇 청색 자색 홍색실과 가는 베실과 염소 털과 붉은 물 들인 수양의 가죽과 해달의 가죽이 있는 자도 가져 왔으며 무릇 은과 놋으로 예물을 삼는 자는 가져다가 여호와께 드렸으며 무릇 섬기는 일에 소용되는 조각목이 있는 자는 가져 왔으며 마음이 슬기로운 모든 여인은 손수 실을 낳고 그 낳은 청색 자색 홍색실과 가는 베실을 가져 왔으며 마음에 감동을 받아 슬기로운 모든 여인은 염소털로 실을 낳았으며 모든 족장은 호마노와 및 에봇과 흉패에 물릴 보석을 가져 왔으며 등불과 관유와 분향할 향에 소용되는 기름과 향품을 가져 왔으니 마음에 원하는 이스라엘 자손의 남녀마다 여호와께서 모세의 손을 빙자하여 명하신 모든 것을 만들기 위하여 물품을 가져다가 여호와께 즐거이 드림이 이러하였더라}}</ref> 날마다 계속 가져와서 성막을 짓는 데 쓰고 남을 만큼 넉넉해지자 모세는 예물 가져오는 것을 중지시켰다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#35장 |title=출애굽기 35:30-36:7 |publisher= |quote= 그러나 백성이 아침마다 자원하는 예물을 연하여 가져 오는 고로 ... 모세에게 고하여 가로되 백성이 너무 많이 가져오므로 여호와의 명하신 일에 쓰기에 남음이 있나이다 모세가 명을 내리매 그들이 진중에 공포하여 가로되 무론 남녀하고 성소에 드릴 예물을 다시 만들지 말라 하매 백성이 가져오기를 정지하니 있는 재료가 모든 일을 하기에 넉넉하여 남음이 있었더라}}</ref> 하나님의 [[성령]]이 충만한 브살렐과 오홀리압과, 지혜로운 자들이 성막을 세우고, 언약궤를 포함해서 그 안의 모든 기구와 장식물, 제사장 의복 등을 만들었다. 성막 짓는 일을 마치자 모세는 그 모든 일을 점검하고 하나님이 명하신 대로 되었으므로 그들에게 복을 빌어주었다.
Khi Môise nhận lấy bảng đá ghi khắc [[Mười Điều Răn]] trên núi Sinai, Đức Chúa Trời đã cho Môise thấy đền tạm ở trên trời.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:1-9 |publisher= |quote= Đức Giêhôva phán cùng Môise rằng... Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ. Hãy làm đền đó y như kiểu đền tạm cùng kiểu các đồ dùng mà ta sẽ chỉ cho ngươi.|url-status=live}}</ref><ref name="히 8:5">{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Hê-bơ-rơ/Chương_8 |title=Hêbơrơ 8:5 |publisher= |quote=và giữ sự thờ phượng, sự thờ phượng đó chẳng qua là hình và bóng của những sự trên trời mà thôi, cũng như khi Môise gần dựng đền tạm, thì Đức Chúa Trời phán bảo rằng: Hãy cẩn thận, làm mọi việc theo như kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi.|url-status=live}}</ref> Sau khi xuống núi, Môise đã truyền lại lời của Đức Chúa Trời cho dân sự rằng để dựng nên đền tạm thì cần thiết các loại lễ vật đa dạng như vàng, bạc, đồng, cây sitim v.v... cũng cần có người khôn ngoan để làm đền tạm và khí dụng.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_35 |title=Xuất Êdíptô Ký 35:4-19 |publisher= |quote= Môise nói cùng cả hội chúng Ysơraên rằng: Đây là các lời Đức Giêhôva đã phán dặn: Hãy lấy một lễ vật chi ở nhà các ngươi mà dâng cho Đức Giêhôva. Hễ người nào có lòng thành dâng cho, hãy đem lễ vật cho Đức Giêhôva: vàng, bạc, và đồng; chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, da cá nược, cây sitim, dầu thắp, các thứ hương liệu đặng chế dầu xức và hương thơm, bích ngọc, và các thứ ngọc khác để dùng khảm cho êphót và bảng đeo ngực. Trong vòng các ngươi mấy người khôn ngoan hơn hết hãy đến làm mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn; đền tạm, trại và bong của đền tạm, móc, ván, xà ngang, trụ và lỗ trụ; hòm bảng chứng và đòn khiêng; nắp thi ân cùng màn che nơi chí thánh; cái bàn và đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn cùng bánh trần thiết; chân đèn, đồ phụ tùng, các đèn và dầu thắp đèn; bàn thờ xông hương cùng đòn khiêng; dầu xức, hương liệu, và bức màn cửa đền tạm; bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng; đòn khiêng và các đồ phụ tùng của bàn thờ; cái thùng và chân thùng; bố vi che hành lang, trụ, lỗ trụ, và bức màn của cửa hành lang; các nọc của đền tạm, cùng nọc và dây của hành lang; bộ áo lễ dùng về công việc trong nơi thánh; bộ áo thánh cho Arôn, thầy tế lễ cả, và bộ áo cho các con trai người đặng làm chức tế lễ.|url-status=live}}</ref> Những người tình nguyện trong dân Ysơraên đã vui vẻ mang đến các lễ vật cần thiết và tiếp tục mang đến mỗi ngày,<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_35 |title=Xuất Êdíptô Ký 35:20-29 |publisher= |quote= Cả hội chúng Ysơraên bèn lui ra khỏi mặt Môise. Mọi người có lòng cảm động, và mọi người có lòng thành, đều đem lễ vật đến dâng cho Đức Giêhôva, để làm công việc hội mạc, các đồ phụ tùng và bộ áo thánh. Phàm người nam cùng nữ, tức mọi kẻ có lòng thành, đều đến đem những hoa tai, nhẫn, khâu, kiềng, các thứ trang sức bằng vàng, và hết thảy đều dâng lễ vật bằng vàng cho Đức Giêhôva. Kẻ nào ở nhà mình có chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, và da cá nược đều đem đến. Hễ ai có chi làm lễ vật bằng bạc hay bằng đồng, đều đem dâng cho Đức Giêhôva, và hễ ai có cây sitim nơi nhà mình dùng hiệp về các công việc tế lễ, đều đem đến. Phàm người đàn bà khéo thì chánh tay mình kéo chỉ lấy và đem đến món chi họ đã kéo rồi, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai mịn. Còn mấy người đàn bà có cảm động và tài khéo thì kéo chỉ lông dê. Các bực tôn trưởng trong dân sự đem bích ngọc và các thứ ngọc khác để khảm cho êphót và bảng đeo ngực; dầu thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và dầu thơm. Cả dân Ysơraên, nam hay nữ, phàm ai có lòng cảm động xui cho mình tình nguyện quyên vào các công việc Đức Giêhôva đã phán dặn nơi Môise, đều đem dâng cho Đức Giêhôva các lễ tình nguyện vậy.|url-status=live}}</ref> nên khi các lễ vật dư dật đến nỗi đủ dùng để dựng đền tạm và còn dư lại. Môise đã cho dừng việc mang đến thêm nữa.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_35 |title=Xuất Êdíptô Ký 35:30-36:7 |publisher= |quote= Nhưng mỗi buổi sớm mai, dân sự lại đem đến lễ vật tình nguyện nữa... đến nói cùng Môise rằng: Dân sự đem đến dư bội phần đặng làm các công việc mà Đức Giêhôva đã phán dặn. Theo lịnh truyền của Môise, họ bèn đi rao từ trại quân rằng: Bất kỳ người nam hay nữ, chớ làm công việc về lễ vật của nơi thánh nữa! Vậy họ cấm dân sự không cho đem đến chi thêm nữa hết. đã đủ các vật liệu đặng làm hết thảy công việc, cho đến đỗi còn dư lại nữa.|url-status=live}}</ref> Bếtsalêên và Ôhôliáp được đầy dẫy [[Đức Thánh Linh|Thánh Linh]] của Đức Chúa Trời, cùng các người khôn khéo đã dựng nên đền tạm. Họ làm ra hết thảy các khí dụng, vật trang trí, trang phục cho thầy tế lễ và kể cả hòm giao ước. Khi việc xây dựng đền tạm được hoàn tất, Môise kiểm tra mọi công việc họ đã làm, thấy mọi sự đều được làm theo như Đức Chúa Trời đã phán dặn, Môise đã chúc phước cho họ. Vào ngày 1 tháng giêng năm sau kể từ khi ra khỏi xứ Êdíptô, Môise đã dựng đền tạm theo lời phán của Đức Chúa Trời. Sau khi đã sắp xếp các khí dụng vào trong đó, người cũng đặt Mười Điều Răn (bảng chứng cớ) vào trong hòm giao ước, và xủ bức màn nơi cửa đền tạm. Thế thì áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy đền tạm. Ban ngày, áng mây của Đức Chúa Trời bao phủ đền tạm, còn ban đêm thì có lửa ở trong áng mây ấy.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_9 |title=Dân Số Ký 9:15 |publisher= |quote= Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.|url-status=live}}</ref> Kể từ đó, phía trên nơi thánh luôn có trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm dẫn dắt bộ hành của người dân Ysơraên.
애굽에서 나온 다음 해 1월 1일, 모세는 하나님의 말씀대로 성막을 세우고 그 안에 기구들을 들여놓은 뒤 십계명(증거판)을 언약궤 안에 넣고 뜰 문에 휘장을 드리웠다. 그러자 구름이 회막에 덮이고 하나님의 영광이 성막을 가득 채웠다. 낮에는 하나님의 구름이 성막을 덮었고 밤에는 불이 그 구름 가운데 있었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#9장 |title=민수기 9:15 |publisher= |quote= 막을 세운 날에 구름이 성막 곧 증거막을 덮었고 저녁이 되면 성막 위에 불 모양 같은 것이 나타나서 아침까지 이르렀으되}}</ref> 이후 성소 위에는 항상 낮에는 구름 기둥, 밤에는 불 기둥이 있어 이스라엘의 행보를 좌우했다.
 
Khi Môise nhận lấy bảng đá ghi khắc Mười Điều Răn trên núi Sinai, Đức Chúa Trời đã cho Môise thấy đền tạm ở trên trời. Sau khi xuống núi, Môise đã truyền lại lời của Đức Chúa Trời cho dân sự rằng để dựng nên đền tạm thì cần thiết các loại lễ vật đa dạng như vàng, bạc, đồng, cây sitim v.v... cũng cần có người khôn ngoan để làm đền tạm và khí dụng. Những người tình nguyện trong dân Ysơraên đã vui vẻ mang đến các lễ vật cần thiết và tiếp tục mang đến mỗi ngày, nên khi các lễ vật dư dật đến nỗi đủ dùng để dựng đền tạm và còn dư lại. Môise đã cho dừng việc mang đến thêm nữa. Bếtsalêên và Ôhôliáp được đầy dẫy Thánh Linh của Đức Chúa Trời, cùng các người khôn khéo đã dựng nên đền tạm. Họ làm ra hết thảy các khí dụng, vật trang trí, trang phục cho thầy tế lễ và kể cả hòm giao ước. Khi việc xây dựng đền tạm được hoàn tất, Môise kiểm tra mọi công việc họ đã làm, thấy mọi sự đều được làm theo như Đức Chúa Trời đã phán dặn, Môise đã chúc phước cho họ. Vào ngày 1 tháng giêng năm sau kể từ khi ra khỏi xứ Êdíptô, Môise đã dựng đền tạm theo lời phán của Đức Chúa Trời. Sau khi đã sắp xếp các khí dụng vào trong đó, người cũng đặt Mười Điều Răn (bảng chứng cớ) vào trong hòm giao ước, và xủ bức màn nơi cửa đền tạm. Thế thì áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy đền tạm. Ban ngày, áng mây của Đức Chúa Trời bao phủ đền tạm, còn ban đêm thì có lửa ở trong áng mây ấy. Kể từ đó, phía trên nơi thánh luôn có trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm dẫn dắt bộ hành của người dân Ysơraên.<br>
성막이 건축되자 하나님은 회막(성막)에서 모세를 불러<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#1장 |title=레위기 1:1 |publisher= |quote= 여호와께서 회막에서 모세를 부르시고 그에게 일러 가라사대}}</ref> 성소에서 하나님께 드리는 [[구약의 제사|제사]]의 규례를 자세히 알려주셨다. 모세는 하나님의 말씀대로 아론과 그의 아들들을 제사장으로 임명했다. 제사를 끝낸 [[아론]]과 모세가 회막에 들어갔다가 나와서 백성들을 축복하자 하나님의 영광이 모든 백성에게 나타났고, 하나님 앞에서 불이 나와서 제단 위의 번제물과 기름을 태웠다.


Khi đền tạm được dựng lên, Đức Chúa Trời từ trong hội mạc (đền tạm) gọi Môise và chỉ dạy một cách chi tiết về luật lệ tế lễ dâng lên Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Theo lời phán của Đức Chúa Trời, Môise bổ nhiệm Arôn và các con trai người làm thầy tế lễ. Sau khi dâng tế lễ, Arôn và Môise bước ra từ đền tạm và chúc phước cho dân sự. Sự vinh quang của Đức Chúa Trời hiện ra cùng cả dân sự. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra thiêu hóa của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ.<br>
Khi đền tạm được dựng lên, Đức Chúa Trời từ trong hội mạc (đền tạm) gọi Môise<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_1 |title=Lêvi Ký 1:1 |publisher= |quote= Ðức Giêhôva từ trong hội mạc gọi Môise mà phán rằng:|url-status=live}}</ref> và chỉ dạy một cách chi tiết về luật lệ [[Tế lễ trong Cựu Ước|tế lễ]] dâng lên Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Theo lời phán của Đức Chúa Trời, Môise bổ nhiệm Arôn và các con trai người làm thầy tế lễ. Sau khi dâng tế lễ, [[Arôn]] và Môise bước ra từ đền tạm và chúc phước cho dân sự. Sự vinh quang của Đức Chúa Trời hiện ra cùng cả dân sự. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra thiêu hóa của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ.
이후 아론의 두 아들 나답과 아비후가 하나님이 명하신 번제단의 불<ref name="불1" /><ref name="불2" />이 아닌 다른 불을 향로에 담아 분향하다가 하나님 앞에서 불이 나와 죽임을 당했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#10장 |title=레위기 10:1-2 |publisher= |quote= 아론의 아들 나답과 아비후가 각기 향로를 가져다가 여호와의 명하시지 않은 다른 불을 담아 여호와 앞에 분향하였더니 불이 여호와 앞에서 나와 그들을 삼키매 그들이 여호와 앞에서 죽은지라}}</ref> 그들의 죽음 후에 하나님은 아론에게 성소의 장 안 법궤 위 속죄소 앞에 아무 때나 들어오지 말아서 죽음을 면하라고 하셨다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#16장 |title=레위기 16:1-2 |publisher= |quote= 아론의 두 아들이 여호와 앞에 나아가다가 죽은 후에 여호와께서 모세에게 말씀하시니라 여호와께서 모세에게 이르시되 네 형 아론에게 이르라 성소의 장 안 법궤 위 속죄소 앞에 무시로 들어오지 말아서 사망을 면하라 내가 구름 가운데서 속죄소 위에 나타남이니라}}</ref> 그리고 성소에 들어올 때에는 반드시 자기와 권속을 위해 속죄하고 난 뒤 지성소에 들어가 분향해야 죽음을 면할 것이라고 말씀하셨다.


Về sau, hai con trai của Arôn là Nađáp và Abihu đã bỏ hương vào và lấy một thứ lửa lạ khác với lửa trên bàn thờ của lễ thiêu mà Đức Chúa Trời phán dặn, rồi một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra khiến họ chết ngay khi đang dâng hương. Sau cái chết của họ, Đức Chúa Trời phán với Arôn rằng chớ đi vào trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng ở phía trong nơi thánh luôn luôn để không bị chết. Ngài phán rằng khi nào Arôn đi vào trong nơi thánh thì nhất định phải chuộc tội cho mình và gia đình mình, sau đó mới được bước vào nơi chí thánh để dâng hương hầu cho người khỏi chết.<br>
Về sau, hai con trai của Arôn là Nađáp và Abihu đã bỏ hương vào và lấy một thứ lửa lạ khác với lửa trên bàn thờ của lễ thiêu mà Đức Chúa Trời phán dặn<ref name="불1" /><ref name="불2" />, rồi một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra khiến họ chết ngay khi đang dâng hương.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_10 |title=Lêvi Ký 10:1-2 |publisher= |quote= Hai con trai Arôn, Nađáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết trước mặt Đức Giêhôva.|url-status=live}}</ref> Sau cái chết của họ, Đức Chúa Trời phán với Arôn rằng chớ đi vào trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng ở phía trong nơi thánh luôn luôn để không bị chết.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_16 |title=Lêvi Ký 16:1-2 |publisher= |quote= Sau khi hai con trai của Arôn chết trong lúc đến gần trước mặt Đức Giêhôva, thì Ngài phán cùng Môise, mà rằng: Hãy nói cùng Arôn, anh ngươi, chớ vào luôn luôn trong nơi thánh ở phía trong bức màn, trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng, e người phải chết chăng; vì ta ở trong mây hiện ra trên nắp thi ân.|url-status=live}}</ref> Ngài phán rằng khi nào Arôn đi vào trong nơi thánh thì nhất định phải chuộc tội cho mình và gia đình mình, sau đó mới được bước vào nơi chí thánh để dâng hương hầu cho người khỏi chết.
이후 이스라엘 [[열두 지파]]는 성막을 중심으로 세 지파씩 동서남북 사면에 진을 쳤다. 동쪽에는 유다와 잇사갈과 스불론 지파, 남쪽에는 르우벤과 시므온과 갓 지파, 서쪽에는 에브라임과 므낫세와 베냐민 지파, 북쪽에는 단과 아셀과 납달리 지파 그리고 중앙에는 레위 지파가 배치됐다. 레위 지파는 성막에서 시무하는 일을 맡았으며 그 대가로 각 지파 사람들의 소득에서 십분의 일을 기업으로 받았다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#3장 |title=민수기 3:5-8 |publisher= |quote=여호와께서 또 모세에게 일러 가라사대 레위 지파로 나아와 제사장 아론 앞에 서서 그에게 시종하게 하라 그들이 회막 앞에서 아론의 직무와 온 회중의 직무를 위하여 회막에서 시무하되 곧 회막의 모든 기구를 수직하며 이스라엘 자손의 직무를 위하여 장막에서 시무할지니 }}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#18장 |title=민수기 18:21 |publisher= |quote=내가 이스라엘의 십일조를 레위 자손에게 기업으로 다 주어서 그들의 하는 일 곧 회막에서 하는 일을 갚나니}}</ref> 이스라엘 자손은 각기 가족과 종족을 따르며 진을 치기도 하고 진행하기도 했다. 구름이 성막 위에서 떠오르면 앞으로 진행하다가 구름이 머무는 곳에 진을 쳤다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#2장 |title=민수기 2:1-34 |publisher= |quote= 여호와께서 모세와 아론에게 일러 가라사대 이스라엘 자손은 각각 그 기와 그 종족의 기호 곁에 진을 치되 회막을 사면으로 대하여 치라 동방 해 돋는 편에 진 칠 자는 ... 유다의 진 기에 속한 자라 ... 그 곁에 진 칠 자는 잇사갈 지파라 ... 또 스불론 지파라 ... 남편에는 르우벤 군대의 진 기가 있을 것이라 ... 그 곁에 진 칠 자는 시므온 지파라 ... 또 갓 지파라 ... 회막이 레위인의 진과 함께 모든 진의 중앙에 있어 진행하되 ... 서편에는 에브라임의 군대의 진 기가 있을 것이라 ... 그 곁에는 므낫세 지파가 있을 것이라 ... 베냐민 지파라 ... 북편에는 단 군대의 진 기가 있을 것이라 ... 그 곁에 진 칠 자는 아셀 지파라 ... 또 납달리 지파라 ... 레위인은 이스라엘 자손과 함께 계수되지 아니하였으니 여호와께서 모세에게 명하심과 같았느니라 이스라엘 자손이 여호와께서 모세에게 명하신 대로 다 준행하여 각기 가족과 종족을 따르며 그 기를 따라 진 치기도 하며 진행하기도 하였더라}}</ref> 구름이 성막 위에 머물러 있는 동안에는 이틀이든 한 달이든 일 년이든 진행하지 않았다.


Sau này, mười hai chi phái Ysơraên đóng trại ở bốn phía đông tây nam bắc xung quanh đền tạm, mỗi bên ba chi phái. Các chi phái Giuđa, Ysaca và Sabulôn ở phía đông; các chi phái Rubên, Simêôn, Gát ở phía nam; các chi phái Épraim, Manase, Bêngiamin ở phía tây; các chi phái Đan, Ase, Néptali ở phía bắc; còn chi phái Lêvi được đặt ở trung tâm. Chi phái Lêvi được giao phó chức vụ hầu việc tại đền tạm, đổi lại họ được nhận một phần mười thu nhập của người dân mỗi chi phái để làm sản nghiệp mình. Dân Ysơraên đóng trại và ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình. Khi áng mây ngự lên khỏi đền tạm thì họ tiến về phía trước và đóng trại tại nơi áng mây dừng lại. Còn trong suốt khoảng thời gian áng mây dừng lại trên đền tạm thì họ không di chuyển dù là hai ngày, một tháng hay một năm.<br>
Sau này, [[12 chi phái|mười hai chi phái]] Ysơraên đóng trại ở bốn phía đông tây nam bắc xung quanh đền tạm, mỗi bên ba chi phái. Các chi phái Giuđa, Ysaca và Sabulôn ở phía đông; các chi phái Rubên, Simêôn, Gát ở phía nam; các chi phái Épraim, Manase, Bêngiamin ở phía tây; các chi phái Đan, Ase, Néptali ở phía bắc; còn chi phái Lêvi được đặt ở trung tâm. Chi phái Lêvi được giao phó chức vụ hầu việc tại đền tạm, đổi lại họ được nhận một phần mười thu nhập của người dân mỗi chi phái để làm sản nghiệp mình.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_3 |title=Dân Số Ký 3:5-8 |publisher= |quote=Đức Giêhôva bèn phán cùng Môise rằng: Hãy khiến chi phái Lêvi lại gần, đặt trước thầy tế lễ Arôn, để người Lêvi phục sự người. Người Lêvi sẽ giữ chức phận của người và chức phận của cả hội chúng về trước hội mạc mà làm những công việc của đền tạm. Cũng phải coi sóc hết thảy đồ đạc của hội mạc và mọi vật chi dân Ysơraên giao cho đặng dùng làm công việc của đền tạm. |url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_18 |title=Dân Số Ký 18:21 |publisher= |quote=Còn về con cháu Lêvi, nầy ta đã ban cho làm cơ nghiệp, mọi thuế một phần mười của Ysơraên làm lương về công việc mình làm trong hội mạc.|url-status=live}}</ref> Dân Ysơraên đóng trại và ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình. Khi áng mây ngự lên khỏi đền tạm thì họ tiến về phía trước và đóng trại tại nơi áng mây dừng lại.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_2 |title=Dân Số Ký 2:1-34 |publisher= |quote= Đức Giêhôva phán cùng Môise và Arôn rằng: Dân Ysơraên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở dưới bảng hiệu của tông tộc mình, đối ngang nhau vây chung quanh hội mạc. Trại quân Giuđa sẽ đóng tại hướng đông, về phía mặt trời mọc... Quan trưởng của người Giuđa... Chi phái Ysaca phải đóng trại bên Giuđa... Kế đến chi phái Sabulôn... Ngọn cờ của trại quân Rubên và những đội ngũ mình, phải đóng về hướng nam... Chi phái Simêôn phải đóng trại bên Rubên... Kế đến chi phái Gát... hội mạc sẽ đi với trại quân Lêvi, ở giữa các trại quân khác... Ngọn cờ của trại quân Épraim và những quân đội người phải đóng về hướng tây... Chi phái Manase phải đóng trại bên Épraim... Kế đến chi phái Bêngiamin... Ngọn cờ của trại quân Đan và những quân đội họ phải đóng về hướng bắc... Chi phái Ase phải đóng trại bên Đan... Kế đến chi phái Néptali... Nhưng người Lêvi không nhập sổ chung với dân Ysơraên, tùy theo mạng của Đức Giêhôva đã truyền cho Môise. Dân Ysơraên y theo mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn Môise, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình.|url-status=live}}</ref> Còn trong suốt khoảng thời gian áng mây dừng lại trên đền tạm thì họ không di chuyển dù là hai ngày, một tháng hay một năm.
모세 시대에 만들어졌던 성막은 가나안 땅에 들어간 이후, 실로에 세워졌고 하나님의 [[언약궤]]는 성막 안에 안치되었다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/여호수아#18장 |title=여호수아 18:1 |publisher= |quote= 이스라엘 자손의 온 회중이 실로에 모여서 거기 회막을 세웠으니 그 땅이 이미 그들의 앞에 돌아와 복종하였음이나}}</ref> [[솔로몬]] 시대에 들어, 모리아산에 고정된 형태의 [[예루살렘]] 성전을 건축하고 성소를 성전으로 옮겼다.


Sau khi vào xứ Canaan, đền tạm từng được dựng lên vào thời Môise đã được dựng tại Silô và hòm giao ước của Đức Chúa Trời được đặt bên trong đền tạm. Vào thời Salômôn, đền thờ Giêrusalem được xây cất cố định trên núi Môria và nơi thánh được chuyển đến đền thờ.
Sau khi vào xứ Canaan, đền tạm từng được dựng lên vào thời Môise đã được dựng tại Silô và [[hòm giao ước]] của Đức Chúa Trời được đặt bên trong đền tạm.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Giô-suê/Chương_18 |title=Giôsuê 18:1 |publisher= |quote= Cả hội chúng dân Ysơraên nhóm hiệp tại Silô, và lập hội mạc tại đó: xứ đều phục trước mặt họ.|url-status=live}}</ref> Vào thời [[Salômôn]], đền thờ [[Giêrusalem]] được xây cất cố định trên núi Môria và nơi thánh được chuyển đến đền thờ.


== Vai trò và ý nghĩa của nơi thánh ==
== Vai trò và ý nghĩa của nơi thánh ==
십계명과 [[하나님의 절기|절기]]와 성소는 분리할 수 없는 단 하나의 조직처럼 긴밀히 연결되어 있다. 하나님 언약의 말씀인 십계명을 안전히 보관해 두기 위해 성소가 필요했고, 성소 안에서 하나님을 섬기는 예법으로 절기가 필요했다. 또한 절기는 속죄 제물을 통해 정결함을 받아 성소 안에 있는 십계명(생명과)에 나아가 생명을 얻는 길이기도 했다. 
Mười Điều Răn, [[Các kỳ lễ trọng của Đức Chúa Trời|lễ trọng thể]] và nơi thánh được liên kết chặt chẽ như một tổ chức không thể tách rời. Cần thiết một nơi thánh để bảo quản an toàn Mười Điều Răn, là lời giao ước của Đức Chúa Trời, và cũng cần thiết các lễ trọng thể của Đức Chúa Trời như là phép đạo để hầu việc Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Hơn nữa, lễ trọng thể là con đường để được sự tinh sạch thông qua của lễ chuộc tội, nhờ đó tiến gần đến Mười Điều Răn (trái sự sống) trong nơi thánh và được nhận sự sống.   
 
Mười Điều Răn, lễ trọng thể và nơi thánh được liên kết chặt chẽ như một tổ chức không thể tách rời. Cần thiết một nơi thánh để bảo quản an toàn Mười Điều Răn, là lời giao ước của Đức Chúa Trời, và cũng cần thiết các lễ trọng thể của Đức Chúa Trời như là phép đạo để hầu việc Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Hơn nữa, lễ trọng thể là con đường để được sự tinh sạch thông qua của lễ chuộc tội, nhờ đó tiến gần đến Mười Điều Răn (trái sự sống) trong nơi thánh và được nhận sự sống.   


=== Nơi Đức Chúa Trời ngự ===
=== Nơi Đức Chúa Trời ngự ===
성소가 거룩한 곳으로 [https://stdict.korean.go.kr/search/searchView.do?word_no=187735&searchKeywordTo=3 성별](聖別)된 가장 중요한 이유는 이곳에 하나님이 계시기 때문이다. 성소는 하나님의 처소로서 [[여호와]]의 집이라고 불렸다.<ref name="거할 성소"/><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/시편#122장 |title=시편 122:1 |publisher= |quote= 사람이 내게 말하기를 여호와의 집에 올라가자 할 때에 내가 기뻐하였도다}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/시편#134장 |title=시편 134:1-2 |publisher= |quote= 밤에 여호와의 집에 섰는 여호와의 모든 종들아 여호와를 송축하라 성소를 향하여 너희 손을 들고 여호와를 송축하라}}</ref> 하나님이 자기 백성과 함께 거하신다는 상징이기도 했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/시편#114장 |title=시편 114:2 |publisher= |quote= 유다는 여호와의 성소가 되고 이스라엘은 그의 영토가 되었도다}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/하박국#2장 |title=하박국 2:20 |publisher= |quote= 오직 여호와는 그 성전에 계시니 온 천하는 그 앞에서 잠잠할지니라}}</ref> 성막은 회막(會幕, Tent of Meeting)이라고도 일컬어졌는데<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#25장 |title=출애굽기 25:22 |publisher= |quote= 거기서 내가 너와 만나고 속죄소 위 곧 증거궤 위에 있는 두 그룹 사이에서 내가 이스라엘 자손을 위하여 네게 명할 모든 일을 네게 이르리라}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#31장 |title=출애굽기 31:7 |publisher= |quote= 곧 회막과 증거궤와 그 위의 속죄소와 회막의 모든 기구와}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/출애굽기#33장 |title=출애굽기 33:8 |publisher= |quote= 모세가 회막으로 나아갈 때에는 백성이 다 일어나 자기 장막문에 서서 모세가 회막에 들어가기까지 바라보며}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/민수기#11장 |title=민수기 11:26|publisher= |quote= 그 녹명된 자 중 엘닷이라 하는 자와 메닷이라 하는 자 두 사람이 진에 머물고 회막에 나아가지 아니하였으나 그들에게도 신이 임하였으므로 진에서 예언한지라}}</ref> 그곳에서 하나님을 만났기 때문이다.
do quan trọng nhất khiến nơi thánh được biệt riêng như một nơi thánh khiết, là vì có Đức Chúa Trời ngự ở nơi này. Nơi thánh được gọi là nơi ở của Đức [[Giêhôva]], là nhà của Đức Chúa Trời,<ref name="거할 성소" /><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thiên/Chương_122 |title=Thi Thiên 122:1 |publisher= |quote= Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi rằng: Ta hãy đi đến nhà Ðức Giêhôva.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thiên/Chương_134 |title=Thi Thiên 134:1-2 |publisher= |quote= Hỡi các tôi tớ Ðức Giêhôva, là kẻ ban đêm đứng tại nhà Ngài, Hãy ngợi khen Ðức Giêhôva! Hãy giơ tay lên hướng về nơi thánh, Và ngợi khen Ðức Giêhôva!|url-status=live}}</ref> và cũng tượng trưng cho việc Đức Chúa Trời ngự cùng với người dân của Ngài.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thiên/Chương_114 |title=Thi Thiên 114:2 |publisher= |quote= Thì Giuđa trở nên đền thánh Ngài, Và Ysơraên thành nước Ngài.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Ha-ba-cúc/Chương_2 |title=Habacúc 2:20 |publisher= |quote= Nhưng Ðức Giêhôva ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãy làm thinh!|url-status=live}}</ref> Đền tạm còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting),<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_25 |title=Xuất Êdíptô Ký 25:22 |publisher= |quote= Ta sẽ gặp ngươi tại đó, và ở trên nắp thi ân, giữa hai tượng chêrubim, trên hòm bảng chứng, ta sẽ truyền cho ngươi các mạng lịnh về dân Ysơraên.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_31 |title=Xuất Êdíptô Ký 31:7 |publisher= |quote= là hội mạc, hòm bảng chứng, nắp thi ân ở trên hòm, cùng đồ dùng trong hội mạc;|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Xuất_Ê-díp-tô_ký/Chương_33 |title=Xuất Êdíptô Ký 33:8 |publisher= |quote= Vừa khi Môise ra đến Trại, thì cả dân sự chỗi dậy, mỗi người đứng nơi cửa trại mình, ngó theo Môise cho đến khi nào người vào trong Trại rồi.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Dân_số_ký/Chương_11 |title=Dân Số Ký 11:26|publisher= |quote= Có hai người ở lại trong trại quân; một người tên là Ênđát, một người tên Mêđát, được Thần cảm động, nói tiên tri tại trại quân. Hai người nầy thuộc về bọn được biên tên, nhưng không có đến hội mạc.|url-status=live}}</ref> vì người dân được gặp gỡ Đức Chúa Trời tại đó.
 
Lý do quan trọng nhất khiến nơi thánh được biệt riêng như một nơi thánh khiết, là vì có Đức Chúa Trời ngự ở nơi này. Nơi thánh được gọi là nơi ở của Đức Giêhôva, là nhà của Đức Chúa Trời, và cũng tượng trưng cho việc Đức Chúa Trời ngự cùng với người dân của Ngài. Đền tạm còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting), vì người dân được gặp gỡ Đức Chúa Trời tại đó.


=== Nơi bảo quản Mười Điều Răn ===
=== Nơi bảo quản Mười Điều Răn ===
하나님의 계명인 십계명은 지성소의 안, 언약궤 속에 보관됐다. 하나님은 십계명을 언약궤에 담고, 그 위에 두 그룹 [[천사]]의 형상이 있는 덮개(속죄소)를 얹게 하셨다. 에덴동산에서 생명과를 지키던 그룹 천사 둘이 언약궤 위에 있는 것은, 이곳에 생명과가 있다는 사실을 시사한다.
Mười Điều Răn, tức là điều răn của Đức Chúa Trời đã được bảo quản trong hòm giao ước bên trong nơi chí thánh. Đức Chúa Trời đã đặt Mười Điều Răn trong hòm giao ước, và đậy nắp (nắp thi ân) có hai tượng [[thiên sứ]] chêrubim ở trên đó. Trên hòm giao ước có hai thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen chỉ ra sự thật rằng có trái sự sống tại nơi này.


Mười Điều Răn, tức là điều răn của Đức Chúa Trời đã được bảo quản trong hòm giao ước bên trong nơi chí thánh. Đức Chúa Trời đã đặt Mười Điều Răn trong hòm giao ước, và đậy nắp (nắp thi ân) có hai tượng thiên sứ chêrubim ở trên đó. Trên hòm giao ước có hai thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen chỉ ra sự thật rằng có trái sự sống tại nơi này.<br>
Các thiên sứ chêrubim canh giữ [[trái sự sống]] trong vườn Êđen cầm gươm lưỡi chói lòa để ngăn chặn không cho tội nhân được đi đến trái sự sống một cách tùy tiện.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Sáng_thế_ký/Chương_3 |title=Sáng Thế Ký 3:24 |publisher= |quote=Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Êđen các thần chêrubim với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống. |url-status=live}}</ref> Giống như vậy, các thiên sứ chêrubim canh giữ hòm giao ước ở nơi chí thánh cũng cầm gươm lưỡi chói lòa, nên những người đến gần hòm giao ước một cách trái phép thì đều bị chết. Uxa đã vô tình chạm tay vào hòm giao ước và bị chết ngay tại chỗ,<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Sa-mu-ên/Chương_6 |title=II Samuên 6:6–7 |publisher= |quote= Khi đến sân đạp lúa của Nacôn, Uxa giơ tay lên nắm hòm của Đức Chúa Trời, bởi vì những con bò vấp ngã. Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva bèn nổi phừng cùng Uxa; Đức Chúa Trời hành hại người vì cớ lầm lỗi người, và người chết tại đó, gần bên hòm của Đức Chúa Trời.|url-status=live}}</ref> còn hai con trai Arôn cũng làm trái mạng lịnh của Đức Chúa Trời nên đã bị chết bởi lửa ra từ nơi này.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lê-vi_ký/Chương_10 |title=Lêvi Ký 10:1-2 |publisher= |quote= Hai con trai Arôn, Nađáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết trước mặt Đức Giêhôva.|url-status=live}}</ref> Tức là Mười Điều Răn đã được ban thay cho trái sự sống, nên [[Đức Chúa Jêsus Christ|Đức Chúa Jêsus]] cũng dạy dỗ rằng “Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các [[Điều răn của Đức Chúa Trời|điều răn]].<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Ma-thi-ơ/Chương_19 |title=Mathiơ 19:17 |publisher= |quote= Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Sao ngươi hỏi ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng lành mà thôi. Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các điều răn.|url-status=live}}</ref>
에덴에서 [[생명과]]를 지키는 그룹 천사는 화염검을 가지고 있어서 죄인이 함부로 생명과에 나아가지 못하게 막았다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/창세기#3장 |title=창세기 3:24 |publisher= |quote=이같이 하나님이 그 사람을 쫓아 내시고 에덴 동산 동편에 그룹들과 두루 도는 화염검을 두어 생명나무의 길을 지키게 하시니라 }}</ref> 이와 같이 지성소에서 언약궤를 지키는 그룹 천사도 화염검을 가지고 있기 때문에 규례에 어긋나게 언약궤에 나아간 이들은 죽임을 당했다. 웃사가 언약궤에 실수로 손을 대었다가 그 자리에서 죽임을 당했고,<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/사무엘하#6장 |title=사무엘하 6:6–7 |publisher= |quote= 저희가 나곤의 타작마당에 이르러서는 소들이 뛰므로 웃사가 손을 들어 하나님의 궤를 붙들었더니 여호와 하나님이 웃사의 잘못함을 인하여 진노하사 저를 그곳에서 치시니 저가 거기 하나님의 궤 곁에서 죽으니라}}</ref> 아론의 두 아들이 하나님의 규례를 어겼다가 이곳에서 나온 불로 죽임을 당했다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/레위기#10장 |title=레위기 10:1-2 |publisher= |quote= 아론의 아들 나답과 아비후가 각기 향로를 가져다가 여호와의 명하시지 않은 다른 불을 담아 여호와 앞에 분향하였더니 불이 여호와 앞에서 나와 그들을 삼키매 그들이 여호와 앞에서 죽은지라}}</ref> 즉 십계명은 생명과 대신에 주신 것으로, [[예수 그리스도|예수님]]은 "생명에 들어가려면 [[하나님의 계명|계명]]들을 지키라"고도 교훈하셨다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/마태복음#19장 |title=마태복음 19:17 |publisher= |quote= 예수께서 가라사대 어찌하여 선한 일을 내게 묻느냐 선한 이는 오직 한 분이시니라 네가 생명에 들어가려면 계명들을 지키라}}</ref>
 
Các thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen cầm gươm lưỡi chói lòa để ngăn chặn không cho tội nhân được đi đến trái sự sống một cách tùy tiện. Giống như vậy, các thiên sứ chêrubim canh giữ hòm giao ước ở nơi chí thánh cũng cầm gươm lưỡi chói lòa, nên những người đến gần hòm giao ước một cách trái phép thì đều bị chết. Uxa đã vô tình chạm tay vào hòm giao ước và bị chết ngay tại chỗ, còn hai con trai Arôn cũng làm trái mạng lịnh của Đức Chúa Trời nên đã bị chết bởi lửa ra từ nơi này. Tức là Mười Điều Răn đã được ban thay cho trái sự sống, nên Đức Chúa Jêsus cũng dạy dỗ rằng “Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các điều răn”.


=== Nơi diễn ra sự tha tội ===
=== Nơi diễn ra sự tha tội ===
하나님이 계신 성소에서는 죄 사함도 이루어졌다. 하나님이 생명과 대신 주신 십계명은 죄인의 몸으로는 받을 수 없었다. "피 흘림이 없으면 사함이 없다"<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/히브리서#9장 |title=히브리서 9:22 |publisher= |quote= 피 흘림이 없은즉 사함이 없느니라}}</ref>는 말씀과 같이 죄 사함을 위해서는 속죄 제물의 희생의 피가 필요했다. [[가인과 아벨|아벨]] 이래로 오랜 세월 동안 구전되어 온 '피 흘림의 제사 방식'은 모세 시대에 이르러 성문화되었다.
Sự tha tội cũng được diễn ra trong nơi thánh mà Đức Chúa Trời ngự. Bằng thân thể của tội nhân thì không thể nhận được Mười Điều Răn mà Đức Chúa Trời đã ban thay cho trái sự sống. Như lời chép rằng “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ”,<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Hê-bơ-rơ/Chương_9 |title=Hêbơrơ 9:22 |publisher= |quote= không đổ huyết thì không có sự tha thứ.|url-status=live}}</ref> nên để được tha tội thì cần có huyết hy sinh của của lễ chuộc tội. “Phương thức dâng tế lễ đổ huyết” được truyền lại trong suốt thời gian lâu dài từ sau [[Cain và Abên|Abên]] đã được văn tự hóa vào thời đại Môise.


Sự tha tội cũng được diễn ra trong nơi thánh mà Đức Chúa Trời ngự. Bằng thân thể của tội nhân thì không thể nhận được Mười Điều Răn mà Đức Chúa Trời đã ban thay cho trái sự sống. Như lời chép rằng “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ”, nên để được tha tội thì cần có huyết hy sinh của của lễ chuộc tội. “Phương thức dâng tế lễ đổ huyết” được truyền lại trong suốt thời gian lâu dài từ sau Abên đã được văn tự hóa vào thời đại Môise.<br>
Các thầy tế lễ trong thời đại Cựu Ước đã dâng tế lễ đổ huyết vì tội lỗi của dân sự trong nơi thánh theo [[luật pháp của Môise]]. Tội lỗi của dân sự được tạm thời chuyển đến nơi thánh thông qua [[Lễ thiêu hằng hiến|tế lễ hằng hiến]], tế lễ vào ngày Sabát và lễ trọng thể, cuối cùng tội lỗi ấy sẽ đổ trên con dê đực Axasên vào [[Đại Lễ Chuộc Tội]]. Sự này là hình bóng cho thấy rằng vào thời đại Tân Ước, tội lỗi của các thánh đồ sẽ tạm thời chuyển đến [[Đấng Christ]] rồi sẽ đổ trên [[Satan (ma quỉ)]] thông qua lễ trọng thể. Con dê Axasên phải chịu sự chết khi đi lang thang trong nơi hoang địa, và tội lỗi của dân sự được tha thứ hoàn toàn.
구약시대 제사장들은 성소에서 [[모세의 율법]]에 따라 백성들의 죄 사함을 위한 피 흘림의 제사를 드렸다. 백성들의 죄는 [[상번제]] 제사와 안식일, 절기 제사를 통해 성소에 임시 옮겨졌다가 최종적으로 [[대속죄일]]에 아사셀 숫염소에게로 넘겨졌다. 이는 신약시대, 성도들의 죄가 [[그리스도]]에게 임시로 옮겨졌다가 절기를 통해 [[사단 (마귀)|사단(마귀)]]에게 옮겨지게 될 것을 보여주는 그림자다. 아사셀 염소는 [https://stdict.korean.go.kr/search/searchView.do?word_no=427968&searchKeywordTo=3 무인지경](無人之境)을 배회하다 죽음을 맞았고 백성들의 죄는 완전히 사해졌다.
 
Các thầy tế lễ trong thời đại Cựu Ước đã dâng tế lễ đổ huyết vì tội lỗi của dân sự trong nơi thánh theo luật pháp của Môise. Tội lỗi của dân sự được tạm thời chuyển đến nơi thánh thông qua tế lễ hằng hiến, tế lễ vào ngày Sabát và lễ trọng thể, cuối cùng tội lỗi ấy sẽ đổ trên con dê đực Axasên vào Đại Lễ Chuộc Tội. Sự này là hình bóng cho thấy rằng vào thời đại Tân Ước, tội lỗi của các thánh đồ sẽ tạm thời chuyển đến Đấng Christ rồi sẽ đổ trên Satan (ma quỉ) thông qua lễ trọng thể. Con dê Axasên phải chịu sự chết khi đi lang thang trong nơi hoang địa, và tội lỗi của dân sự được tha thứ hoàn toàn.


=== Nơi thánh dưới đất và nơi thánh trên trời ===
=== Nơi thánh dưới đất và nơi thánh trên trời ===
모세가 건축한 지상 성소는 하늘 성소를 나타내는 모형이자 그림자다.<ref name="히 8:5"/> 지상 성소에 나아가 생명과를 받기 위해 속죄 제물의 희생의 피로 정결함을 받아야 했듯, 하늘 성소 안에 있는 생명나무에 나아가기 위해서는 어린양이신 그리스도의 피로 정결함을 받아야 한다.<ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/히브리서#10장 |title=히브리서 10:19-20 |publisher= |quote=그러므로 형제들아 우리가 예수의 피를 힘입어 성소에 들어갈 담력을 얻었나니 그 길은 우리를 위하여 휘장 가운데로 열어 놓으신 새롭고 산 길이요 휘장은 곧 저의 육체니라 }}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/요한계시록#22장 |title=요한계시록 22:14 |publisher= |quote= 그 두루마기를 빠는 자들은 복이 있으니 이는 저희가 생명나무에 나아가며 문들을 통하여 성에 들어갈 권세를 얻으려 함이로다}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/요한계시록#7장 |title=요한계시록 7:14 |publisher= |quote= 내가 가로되 내 주여 당신이 알리이다 하니 그가 나더러 이르되 이는 큰 환난에서 나오는 자들인데 어린양의 피에 그 옷을 씻어 희게 하였느니라}}</ref> 그리스도의 보혈을 상징하는 갖가지 절기를 지켜 생명에 나아가게 되는 것이다.
Nơi thánh dưới đất do Môise dựng nên là mô hình và hình bóng bày tỏ về nơi thánh trên trời.<ref name="히 8:5" /> Giống như phải được tinh sạch bởi huyết hy sinh của của lễ chuộc tội để được đi vào nơi thánh dưới đất và nhận lấy trái sự sống, chúng ta cũng phải được tinh sạch bởi huyết của Đấng Christ, là Chiên Con, để có thể đi đến cây sự sống trong nơi thánh trên trời.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Hê-bơ-rơ/Chương_10 |title=Hêbơrơ 10:19-20 |publisher= |quote=Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Ðức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, |url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Khải_Huyền/Chương_22 |title=Khải Huyền 22:14 |publisher= |quote= Phước thay cho những kẻ giặt áo mình đặng có phép đến nơi cây sự sống và bởi các cửa mà vào trong thành!|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Khải_Huyền/Chương_7 |title=Khải Huyền 7:14 |publisher= |quote= Tôi thưa rằng: Lạy chúa, chúa biết điều đó. Người lại phán cùng tôi rằng: Ðó những kẻ ra khỏi cơn đại nạn, đã giặt phiếu trắng áo mình trong huyết Chiên Con.|url-status=live}}</ref> Khi gìn giữ các kỳ lễ trọng thể tượng trưng cho huyết báu của Đấng Christ, chúng ta sẽ được bước đến với sự sống.
 
Nơi thánh dưới đất do Môise dựng nên mô hình hình bóng bày tỏ về nơi thánh trên trời. Giống như phải được tinh sạch bởi huyết hy sinh của của lễ chuộc tội để được đi vào nơi thánh dưới đất và nhận lấy trái sự sống, chúng ta cũng phải được tinh sạch bởi huyết của Đấng Christ, là Chiên Con, để có thể đi đến cây sự sống trong nơi thánh trên trời. Khi gìn giữ các kỳ lễ trọng thể tượng trưng cho huyết báu của Đấng Christ, chúng ta sẽ được bước đến với sự sống.
== Xem thêm ==
== Xem thêm ==
* [[지성소]]
* [[Nơi chí thánh]]
* [[성전]]
* [[Đền thánh]]
* [[언약궤]]
* [[Hòm giao ước]]
* [[예루살렘]]
* [[Giêrusalem]]
* [[새 예루살렘]]
* [[Giêrusalem Mới]]
* [[구약의 제사]]
* [[Tế lễ trong Cựu Ước]]
* [[하나님의 절기]]
* [[Các kỳ lễ trọng của Đức Chúa Trời]]
* [[대속죄일]]
* [[Đại Lễ Chuộc Tội]]


== Liên kết ngoài ==
== Liên kết ngoài ==
* [https://watv.org/ko 하나님의교회 세계복음선교협회]
* [https://watv.org/vi Trang web Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền Giáo Tin Lành Thế Giới]
* [https://watvmedia.org/ 하나님의교회 세계복음선교협회 MEDIA CAST]
* [https://watvmedia.org/vi Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền Giáo Tin Lành Thế Giới MEDIA CAST MEDIA CAST]
* [https://ahnsahnghong.com/ 그리스도 안상홍님 홈페이지]<br>
* [https://ahnsahnghong.com/vi Trang web Đấng Christ An Xang Hồng]


==Chú thích==
==Chú thích==
<references />
<references />


[[Category:성경 상식]]
[[Category:Thường thức Kinh Thánh]]
[[Category:성경 용어]]
[[Category:Thuật ngữ Kinh Thánh]]

Bản mới nhất lúc 08:09, ngày 27 tháng 3 năm 2024

Nơi thánh (đền tạm)
Nơi thánh (đền tạm)

Nơi thánh (Sanctuary) có nghĩa là “địa điểm thánh”, “nơi ở của Đức Chúa Trời”, là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa dân sự. Nơi thánh là nơi bảo quản Mười Điều Răn, tức lời giao ước của Đức Chúa Trời, và là nơi diễn ra sự tha tội cho người dân Ysơraên. Cấu trúc nơi đây được phân chia thành nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Nơi thánh đầu tiên được dựng dưới hình thức lều tạm có thể di chuyển được, nên được gọi là đền tạm. Về sau, khi đã xây dựng cố định rồi thì được gọi là đền thờ.

Tên gọi

Nơi thánh trong Kinh Thánh Cựu Ước được chép theo tiếng Hêbơrơ là “miqdash(מִקְדָּשׁ)'[1] hoặc “kodesh (קֹדֶשׁ)'[2] có ý nghĩa là “nơi thánh khiết”. Nơi thánh được gọi là nơi Đức Chúa Trời ngự giữa người dân của Ngài[3] hoặc nhà của Đức Chúa Trời.[4]

Từ “nơi thánh” theo nghĩa hẹp là chỉ về phần nơi thánh ngoài, còn theo nghĩa rộng thì chỉ về toàn bộ phần bên ngoài lẫn bên trong. Nơi thánh trong còn được gọi là nơi chí thánh (至聖所, The Most Holy Place). Theo nghĩa rộng hơn, nơi thánh chỉ về toàn bộ công trình (đền tạm) hoặc tòa nhà (đền thờ) có đặt để nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Trong Kinh Thánh tiếng Hàn, nơi chí thánh cũng được dịch là nơi thánh.[5] Khi dựng lên nơi thánh, người ta đã dựng như một cái lều được làm bởi các sợi chỉ xoắn, nên đã được gọi là lều tạm (帳幕) hay đền tạm (聖幕). Nơi đó còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting), làm tăng thêm ý nghĩa là “nơi gặp gỡ Đức Chúa Trời”. Vì là nơi bảo quản hòm bảng chứng (hòm giao ước) nên cũng được gọi là “đền tạm chứng cớ”.[6]

Cấu tạo của nơi thánh

Bản vẽ mô hình nơi thánh

Đền tạm mà Môise đã dựng là một đền thờ di động hình chữ nhật có kích thước tổng thể bề ngang 50 thước, bề dài 100 thước[7] với kết cấu có thể tháo dỡ và lắp đặt lại tương tự như lán trại ngày nay. Vì khi ấy dân Ysơraên đang sinh hoạt trong đồng vắng nên không thể xây cất một tòa nhà cố định.

Nơi thánh là kiến trúc quan trọng nhất nằm bên trong đền tạm, khác với ngoại quan bên ngoài trông có vẻ như là một. Cấu trúc bên trong được phân chia thành hai phần: phía trước bức màn (nơi thánh ngoài, nơi thánh) và phần phía sau bức màn (nơi thánh trong, nơi chí thánh). Có phương hướng đã được định sẵn khi dựng nên nơi thánh. Ở phía có nơi chí thánh, tức mặt sau của nơi thánh là phía tây, còn mặt trước của lối ra vào hướng về phía đông.[8][9]

Về sau, tuy đền tạm di động được thay đổi thành đền thờ cố định, nhưng cấu tạo cơ bản và phương hướng vẫn đồng nhất.

Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất. Vả, một đền tạm đã dựng lên: phần thứ nhứt gọi là nơi thánh, có chân đèn, bàn và bánh bày ra; rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh, có lư hương bằng vàng và hòm giao ước, toàn bọc bằng vàng. Trong hòm có một cái bình bằng vàng đựng đầy mana, cây gậy trổ hoa của Arôn, và hai bảng giao ước.

- Hêbơrơ 9:1-4

Nơi thánh ngoài

Bàn bánh trần thiết – Chân đèn bằng vàng – Bàn thờ xông hương
Bàn bánh trần thiết – Chân đèn bằng vàng – Bàn thờ xông hương

Phần bên ngoài nghĩa là nơi thánh phía ngoài, là không gian tính từ cửa nơi thánh đến phía trước bức màn. Trong đó có bàn để bánh trần thiết, chân đèn bằng vàng (chân đèn) và bàn thờ xông hương.

  • Bàn bánh trần thiết: Chiếc bàn được làm bằng cây sitim, bề rộng hai thước, bề dài một thước và bề cao một thước rưỡi. Bàn được bọc bằng vàng ròng và chạy một đường viền chung quanh. Trên bàn luôn có bánh trần thiết (陳設餠), và cũng đặt sẵn dĩa, chén, chậu, ly dùng làm lễ quán, đều được làm bằng vàng ròng. Bánh trần thiết được hấp bằng bột lọc không pha men, tổng cộng mười hai ổ bánh được sắp thành hai hàng, mỗi hàng sáu ổ đặt trên bàn. Bánh được thay mới vào mỗi ngày Sabát. Thầy tế lễ thượng phẩm và con cháu mình sẽ ăn bánh đã thay thế ấy trong hành lang của đền tạm.[10][11]
  • Chân đèn bằng vàng (chân đèn): Chân đèn có 7 nhánh, mỗi bên 3 nhánh và có đài như hình hoa hạnh nhân ở phía cuối. Thân đèn, đài, hoa, bầu, toàn bộ đều được làm bằng vàng và được liên kết lại thành một. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng được làm bằng vàng ròng.[12] Bảy cái thếp đèn đóng vai trò chiếu sáng phía trước chân đèn. Phải thắp đèn bằng dầu tinh khiết được ép từ quả ôlive, hầu cho đèn không tắt từ tối cho đến sáng, còn ban ngày thì không thắp đèn.[13]
  • Bàn thờ xông hương: Bàn thờ có bề dài 1 thước, bề ngang 1 thước, bề cao 2 thước được làm bằng cây sitim. Có bốn sừng ló ra ở bốn góc phía trên, được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền vàng xung quanh tứ vi. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ xông hương vào buổi sáng và buổi tối.[14]

Nơi thánh trong (Nơi chí thánh)

Sơ đồ mô hình hòm giao ước. Phần đậy trên hòm giao ước chính là nắp thi ân.
Sơ đồ mô hình hòm giao ước. Phần đậy trên hòm giao ước chính là nắp thi ân.

Đây là không gian bên trong phía sau bức màn, được tạo thành hình vuông có bề dài, bề ngang, bề cao bằng nhau. Bên trong là nơi có hòm giao ước đang bảo quản Mười Điều Răn, vì là “nơi vô cùng thánh khiết” nên được gọi là “nơi chí thánh”. Không ai được phép đi vào nơi chí thánh, duy chỉ thầy tế lễ thượng phẩm được xức dầu mới có thể đi vào nơi chí thánh mỗi năm một lần vào Đại Lễ Chuộc Tội trong khi mang theo của lễ chuộc tội.[15][16]

  • Bức màn: Được thêu hình chêrubim, dùng làm tấm màn phân biệt nơi thánh ngoài và nơi thánh trong. Để đi vào nơi thánh trong từ bên ngoài thì nhất định phải đi qua bức màn.[17]
  • Hòm giao ước: Hòm giao ước là phần quan trọng nhất trong số các khí dụng của đền tạm. Hòm được làm bằng cây sitim có bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao một thước rưỡi. Hòm được bọc bằng vàng ròng và chạy đường viền chung quanh bằng vàng. Có bốn cái khoen vàng, và cây đòn được làm bằng vàng xỏ vào khoen để khiêng hòm. Bảng chứng cớ (bảng đá Mười Điều Răn) được đặt trong hòm giao ước.[18]
  • Nắp thi ân: Phần để đậy trên hòm giao ước được gọi là “nắp thi ân (贖罪所)”. Đức Chúa Trời đã phán rằng Ngài sẽ gặp gỡ Môise giữa hai chêrubim ở trên nắp thi ân. Hai chêrubim này biểu tượng cho các chêrubim đang canh giữ cây sự sống trong vườn Êđên. Tại đây, sự tha tội được diễn ra và ân huệ của Đức chúa Trời được ban xuống. Nắp thi ân còn được gọi là “nơi chuộc tội (施恩座, nơi ban ân điển)”.[19]

Hành lang đền tạm

Cái thùng bằng đồng và bàn thờ của lễ thiêu
Cái thùng bằng đồng và bàn thờ của lễ thiêu

Khi đi vào bên trong thông qua cánh cửa đền tạm (cánh cửa phía đông) sẽ thấy một không gian rộng lớn. Hành lang của đền tạm được dựng hàng rào bằng 300 thước vải gai đậu mịn và 60 cây trụ. Chiều cao của cây trụ là 5 thước (khoảng 2,25m), nên sẽ không thể nhìn thấy những gì đang diễn ra bên trong nếu không đi qua cửa đền tạm.

  • Bàn thờ của lễ thiêu: Là bàn thờ được làm bằng đồng để dâng tế lễ lên Đức Chúa Trời.[20] Để tiến vào trong nơi thánh để dâng hương, các thầy tế lễ phải đi vào trong khi mang theo lửa từ bàn thờ của lễ thiêu.[21][22]
  • Thùng đựng nước: Là cái thùng chứa nước để rửa tay và chân. Thùng đựng nước được đặt giữa khoảng bàn thờ của lễ thiêu của đền tạm và cửa ra vào, các thầy tế lễ sẽ rửa tay và chân mình trong đó trước khi đi vào nơi thánh.[23]

Nơi thánh và lịch sử Ysơraên

Cảnh dựng nên đền tạm
Vào ban ngày, trụ mây ở phía trên nơi thánh, còn ban đêm là trụ lửa để cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Khi Môise nhận lấy bảng đá ghi khắc Mười Điều Răn trên núi Sinai, Đức Chúa Trời đã cho Môise thấy đền tạm ở trên trời.[24][25] Sau khi xuống núi, Môise đã truyền lại lời của Đức Chúa Trời cho dân sự rằng để dựng nên đền tạm thì cần thiết các loại lễ vật đa dạng như vàng, bạc, đồng, cây sitim v.v... cũng cần có người khôn ngoan để làm đền tạm và khí dụng.[26] Những người tình nguyện trong dân Ysơraên đã vui vẻ mang đến các lễ vật cần thiết và tiếp tục mang đến mỗi ngày,[27] nên khi các lễ vật dư dật đến nỗi đủ dùng để dựng đền tạm và còn dư lại. Môise đã cho dừng việc mang đến thêm nữa.[28] Bếtsalêên và Ôhôliáp được đầy dẫy Thánh Linh của Đức Chúa Trời, cùng các người khôn khéo đã dựng nên đền tạm. Họ làm ra hết thảy các khí dụng, vật trang trí, trang phục cho thầy tế lễ và kể cả hòm giao ước. Khi việc xây dựng đền tạm được hoàn tất, Môise kiểm tra mọi công việc họ đã làm, thấy mọi sự đều được làm theo như Đức Chúa Trời đã phán dặn, Môise đã chúc phước cho họ. Vào ngày 1 tháng giêng năm sau kể từ khi ra khỏi xứ Êdíptô, Môise đã dựng đền tạm theo lời phán của Đức Chúa Trời. Sau khi đã sắp xếp các khí dụng vào trong đó, người cũng đặt Mười Điều Răn (bảng chứng cớ) vào trong hòm giao ước, và xủ bức màn nơi cửa đền tạm. Thế thì áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy đền tạm. Ban ngày, áng mây của Đức Chúa Trời bao phủ đền tạm, còn ban đêm thì có lửa ở trong áng mây ấy.[29] Kể từ đó, phía trên nơi thánh luôn có trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm dẫn dắt bộ hành của người dân Ysơraên.

Khi đền tạm được dựng lên, Đức Chúa Trời từ trong hội mạc (đền tạm) gọi Môise[30] và chỉ dạy một cách chi tiết về luật lệ tế lễ dâng lên Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Theo lời phán của Đức Chúa Trời, Môise bổ nhiệm Arôn và các con trai người làm thầy tế lễ. Sau khi dâng tế lễ, Arôn và Môise bước ra từ đền tạm và chúc phước cho dân sự. Sự vinh quang của Đức Chúa Trời hiện ra cùng cả dân sự. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra thiêu hóa của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ.

Về sau, hai con trai của Arôn là Nađáp và Abihu đã bỏ hương vào và lấy một thứ lửa lạ khác với lửa trên bàn thờ của lễ thiêu mà Đức Chúa Trời phán dặn[21][22], rồi một ngọn lửa từ trước mặt Đức Chúa Trời lòe ra khiến họ chết ngay khi đang dâng hương.[31] Sau cái chết của họ, Đức Chúa Trời phán với Arôn rằng chớ đi vào trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng ở phía trong nơi thánh luôn luôn để không bị chết.[32] Ngài phán rằng khi nào Arôn đi vào trong nơi thánh thì nhất định phải chuộc tội cho mình và gia đình mình, sau đó mới được bước vào nơi chí thánh để dâng hương hầu cho người khỏi chết.

Sau này, mười hai chi phái Ysơraên đóng trại ở bốn phía đông tây nam bắc xung quanh đền tạm, mỗi bên ba chi phái. Các chi phái Giuđa, Ysaca và Sabulôn ở phía đông; các chi phái Rubên, Simêôn, Gát ở phía nam; các chi phái Épraim, Manase, Bêngiamin ở phía tây; các chi phái Đan, Ase, Néptali ở phía bắc; còn chi phái Lêvi được đặt ở trung tâm. Chi phái Lêvi được giao phó chức vụ hầu việc tại đền tạm, đổi lại họ được nhận một phần mười thu nhập của người dân mỗi chi phái để làm sản nghiệp mình.[33][34] Dân Ysơraên đóng trại và ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình. Khi áng mây ngự lên khỏi đền tạm thì họ tiến về phía trước và đóng trại tại nơi áng mây dừng lại.[35] Còn trong suốt khoảng thời gian áng mây dừng lại trên đền tạm thì họ không di chuyển dù là hai ngày, một tháng hay một năm.

Sau khi vào xứ Canaan, đền tạm từng được dựng lên vào thời Môise đã được dựng tại Silô và hòm giao ước của Đức Chúa Trời được đặt bên trong đền tạm.[36] Vào thời Salômôn, đền thờ Giêrusalem được xây cất cố định trên núi Môria và nơi thánh được chuyển đến đền thờ.

Vai trò và ý nghĩa của nơi thánh

Mười Điều Răn, lễ trọng thể và nơi thánh được liên kết chặt chẽ như một tổ chức không thể tách rời. Cần thiết một nơi thánh để bảo quản an toàn Mười Điều Răn, là lời giao ước của Đức Chúa Trời, và cũng cần thiết các lễ trọng thể của Đức Chúa Trời như là phép đạo để hầu việc Đức Chúa Trời trong nơi thánh. Hơn nữa, lễ trọng thể là con đường để được sự tinh sạch thông qua của lễ chuộc tội, nhờ đó tiến gần đến Mười Điều Răn (trái sự sống) trong nơi thánh và được nhận sự sống.

Nơi Đức Chúa Trời ngự

Lý do quan trọng nhất khiến nơi thánh được biệt riêng như một nơi thánh khiết, là vì có Đức Chúa Trời ngự ở nơi này. Nơi thánh được gọi là nơi ở của Đức Giêhôva, là nhà của Đức Chúa Trời,[3][37][38] và cũng tượng trưng cho việc Đức Chúa Trời ngự cùng với người dân của Ngài.[39][40] Đền tạm còn được gọi là hội mạc (會幕, Tent of Meeting),[41][42][43][44] vì người dân được gặp gỡ Đức Chúa Trời tại đó.

Nơi bảo quản Mười Điều Răn

Mười Điều Răn, tức là điều răn của Đức Chúa Trời đã được bảo quản trong hòm giao ước bên trong nơi chí thánh. Đức Chúa Trời đã đặt Mười Điều Răn trong hòm giao ước, và đậy nắp (nắp thi ân) có hai tượng thiên sứ chêrubim ở trên đó. Trên hòm giao ước có hai thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen chỉ ra sự thật rằng có trái sự sống tại nơi này.

Các thiên sứ chêrubim canh giữ trái sự sống trong vườn Êđen cầm gươm lưỡi chói lòa để ngăn chặn không cho tội nhân được đi đến trái sự sống một cách tùy tiện.[45] Giống như vậy, các thiên sứ chêrubim canh giữ hòm giao ước ở nơi chí thánh cũng cầm gươm lưỡi chói lòa, nên những người đến gần hòm giao ước một cách trái phép thì đều bị chết. Uxa đã vô tình chạm tay vào hòm giao ước và bị chết ngay tại chỗ,[46] còn hai con trai Arôn cũng làm trái mạng lịnh của Đức Chúa Trời nên đã bị chết bởi lửa ra từ nơi này.[47] Tức là Mười Điều Răn đã được ban thay cho trái sự sống, nên Đức Chúa Jêsus cũng dạy dỗ rằng “Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các điều răn”.[48]

Nơi diễn ra sự tha tội

Sự tha tội cũng được diễn ra trong nơi thánh mà Đức Chúa Trời ngự. Bằng thân thể của tội nhân thì không thể nhận được Mười Điều Răn mà Đức Chúa Trời đã ban thay cho trái sự sống. Như lời chép rằng “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ”,[49] nên để được tha tội thì cần có huyết hy sinh của của lễ chuộc tội. “Phương thức dâng tế lễ đổ huyết” được truyền lại trong suốt thời gian lâu dài từ sau Abên đã được văn tự hóa vào thời đại Môise.

Các thầy tế lễ trong thời đại Cựu Ước đã dâng tế lễ đổ huyết vì tội lỗi của dân sự trong nơi thánh theo luật pháp của Môise. Tội lỗi của dân sự được tạm thời chuyển đến nơi thánh thông qua tế lễ hằng hiến, tế lễ vào ngày Sabát và lễ trọng thể, cuối cùng tội lỗi ấy sẽ đổ trên con dê đực Axasên vào Đại Lễ Chuộc Tội. Sự này là hình bóng cho thấy rằng vào thời đại Tân Ước, tội lỗi của các thánh đồ sẽ tạm thời chuyển đến Đấng Christ rồi sẽ đổ trên Satan (ma quỉ) thông qua lễ trọng thể. Con dê Axasên phải chịu sự chết khi đi lang thang trong nơi hoang địa, và tội lỗi của dân sự được tha thứ hoàn toàn.

Nơi thánh dưới đất và nơi thánh trên trời

Nơi thánh dưới đất do Môise dựng nên là mô hình và hình bóng bày tỏ về nơi thánh trên trời.[25] Giống như phải được tinh sạch bởi huyết hy sinh của của lễ chuộc tội để được đi vào nơi thánh dưới đất và nhận lấy trái sự sống, chúng ta cũng phải được tinh sạch bởi huyết của Đấng Christ, là Chiên Con, để có thể đi đến cây sự sống trong nơi thánh trên trời.[50][51][52] Khi gìn giữ các kỳ lễ trọng thể tượng trưng cho huyết báu của Đấng Christ, chúng ta sẽ được bước đến với sự sống.

Xem thêm

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. “4720. Miqdash or miqqedash”. Bible Hub.
  2. “6944. qodesh”. Bible Hub.
  3. 3,0 3,1 “Xuất Êdíptô Ký 25:8”. Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ.
  4. “Giêrêmi 51:51”. vì kẻ ngoại đã xâm vào nơi thánh của nhà Đức Giêhôva.
  5. “Hêbơrơ 10:19-20”. Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh [Kinh Thánh NIV: the Most Holy Place (nơi chí thánh)], bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài,
  6. “Dân Số Ký 9:15”. Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.
  7. “Xuất Êdíptô Ký 27:9-18”. Ngươi cũng hãy làm cái hành lang cho đền tạm... Bề dài của hành lang được một trăm thước, bề ngang, mỗi phía, năm chục thước.
  8. “Xuất Êdíptô Ký 26:22”. Ngươi cũng hãy làm sáu tấm ván về phía sau đền tạm, tức là về hướng tây.
  9. “Dân Số Ký 3:38”. Những người đóng trại trước đền tạm về phía đông, tức trước hội mạc về phía mặt trời mọc, là Môise, Arôn và các con trai người, có chức phận săn sóc nơi thánh thế cho dân Ysơraên. Người ngoại đến gần sẽ bị xử tử.
  10. “Xuất Êdíptô Ký 25:23-30”. Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn bằng cây sitim; bề dài hai thước, bề ngang một thước, và bề cao một thước rưỡi, bọc bằng vàng ròng, và chạy một đường viền chung quanh; rồi lên be cho tứ vi bàn, cao chừng bốn ngón tay và chạy cho be một đường viền vàng. Lại đúc bốn cái khoen vàng, tra vào bốn góc nơi chân bàn. Khoen sẽ ở gần be, để xỏ đòn khiêng bàn. Ngươi hãy chuốt đòn bằng cây sitim, bọc vàng, rồi người ta sẽ dùng khiêng bàn đó. Lại hãy lấy vàng ròng mà làm dĩa, chén, chậu, và ly đặng dùng làm lễ quán. Trên bàn ngươi sẽ để bánh trần thiết cho có luôn luôn trước mặt ta.
  11. “Lêvi Ký 24:8-9”. Mỗi ngày sabát, người ta sẽ sắp bánh nầy trước mặt Ðức Giêhôva luôn luôn, do nơi dân Ysơraên cung cấp; ấy là một giao ước đời đời. Các bánh đó sẽ thuộc về Arôn và các con trai người; họ phải ăn tại một nơi thánh, vì là vật chí thánh cho họ, bởi các của lễ dùng lửa dâng cho Ðức Giêhôva. Ấy là một lệ định đời đời.
  12. “Xuất Êdíptô Ký 25:31-40”. Ngươi cũng hãy làm chân đèn bằng vàng ròng. Cái chân, cái thân, cái đài, cái bầu cùng cái hoa của đèn đều làm bằng vàng đánh dát. Hai bên thân đèn sẽ có sáu nhánh nứt ra, ba nhánh ở bên nầy và ba nhánh ở bên kia. Trong sáu nhánh nứt ra trên chân đèn, mỗi nhánh đều sẽ có ba cái đài hình như hột hạnh nhân cùng bầu và hoa. Trên thân chân đèn, lại cũng sẽ có bốn cái đài hình hột hạnh nhân, bầu và hoa. Trong sáu nhánh từ thân chân đèn nứt ra, hễ cứ mỗi hai nhánh thì dưới có một cái bầu. Bầu cùng nhánh của chân đèn đều bằng vàng ròng nguyên miếng đánh dát. Ngươi cũng hãy làm bảy cái thếp đèn, đặng hễ khi thắp thì chiếu trước chân đèn. Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng sẽ bằng vàng ròng. Người ta sẽ dùng một talâng vàng ròng làm chân đèn nầy và các đồ phụ tùng của chân đèn. Vậy, ngươi hãy xem, cứ làm y như kiểu đã chỉ cho trên núi.
  13. “Xuất Êdíptô Ký 27:20-21”. Ngươi hãy truyền cho dân Ysơraên đem đến dầu lọc ôlive ép, đặng thắp đèn cho đèn sáng luôn luôn. Trong hội mạc, ở ngoài màn, trước hòm bảng chứng, Arôn cùng các con trai người sẽ lo sửa soạn đèn, hầu cho trước mặt Ðức Giêhôva đèn cháy luôn luôn từ tối cho đến sáng. Ấy là một luật đời đời cho dòng dõi dân Ysơraên phải giữ.
  14. “Xuất Êdíptô Ký 30:1-10”. Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn thờ bằng cây sitim, để xông hương. Mặt bàn sẽ vuông, bề dài một thước, bề ngang một thước, và bề cao hai thước; bàn thờ sẽ có bốn sừng ló ra. Ngươi hãy bọc vàng ròng trên mặt, bốn cạnh chung quanh và các sừng; còn tứ vi chạy đường viền vàng. Dưới đường viền đó, nơi hai bên, hãy làm hai cái khoen bằng vàng, để xỏ đòn dùng đặng khiêng. Hãy chuốt đòn khiêng bằng cây sitim, bọc vàng. Ngươi sẽ để bàn thờ đó trước bức màn che hòm bảng chứng đối cùng nắp thi ân trên hòm, là nơi ta sẽ gặp ngươi. Mỗi buổi sớm mai, khi Arôn làm đèn, sẽ xông hương tại nơi đó. Vào lúc chiều tối, khi Arôn thắp đèn, cũng sẽ xông hương; ấy là một thứ hương phải xông trước mặt Đức Giêhôva luôn luôn, trải qua các đời. Trên bàn thờ nầy chớ xông hương lạ hoặc dâng của lễ thiêu, của lễ chay hay là lễ quán nào hết. Nhưng trải qua các đời, mỗi năm một lần, Arôn sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội, bôi trên sừng bàn thờ nầy đặng chuộc tội cho nó. Ấy sẽ là một việc rất thánh cho Đức Giêhôva.
  15. “Lêvi Ký 16:6-34”. vì trong ngày đó [Đại Lễ Chuộc Tội] người ta sẽ làm lễ chuộc tội cho các ngươi, để các ngươi được tinh sạch: chắc các ngươi sẽ được sạch những tội lỗi mình trước mặt Đức Giêhôva vậy... Thầy tế lễ [thầy tế lễ thượng phẩm] đã được phép xức dầu và lập làm chức tế lễ thế cho cha mình, sẽ mặc lấy bộ áo vải gai, tức là bộ áo thánh, mà làm lễ chuộc tội. Người sẽ chuộc tội cho nơi thánh, cho hội mạc, cho bàn thờ, cho những thầy tế lễ, và cho cả dân của hội chúng. Mỗi năm một lần phải làm lễ chuộc tội cho dân Ysơraên, đặng làm cho sạch các tội lỗi của chúng; ấy sẽ là một lệ định đời đời cho các ngươi vậy. Arôn làm y như Đức Giêhôva đã phán dặn Môise.
  16. “Hêbơrơ 9:1-7”. Ước trước cũng có những luật về việc thờ phượng và một nơi thánh dưới đất... rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh... phía trên có hai chêrubim vinh hiển, bóng nó che phủ nơi chuộc tội... nhưng, phần thứ hai, thì mỗi năm một lần chỉ một mình thầy tế lễ thượng phẩm vào, chẳng bao giờ mà không đem huyết dâng vì chính mình và vì sự lầm lỗi dân chúng.
  17. “Xuất Êdíptô Ký 26:31-33”. Ngươi hãy làm một bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, có thêu những hình chêrubim cực xảo; rồi xủ màn đó trên bốn trụ bằng cây sitim, bọc vàng, dựng trên bốn lỗ trụ bằng bạc; các móc trụ đều bằng vàng. Ngươi sẽ treo màn đó vào móc dưới bức bong, rồi ở phía trong màn để hòm bảng chứng; màn nầy dùng phân biệt cho các ngươi nơi thánh và nơi chí thánh. Đoạn, hãy để cái nắp thi ân trên hòm bảng chứng, đặt trong nơi chí thánh.
  18. “Xuất Êdíptô Ký 25:10-16”. Vậy, chúng hãy đóng một cái hòm bằng cây sitim; bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao cũng một thước rưỡi, lấy vàng ròng bọc trong, bọc ngoài, và chạy đường viền chung quanh hòm bằng vàng. Ngươi cũng hãy đúc bốn khoen bằng vàng để tại bốn góc hòm: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia, cùng làm hai cây đòn bằng cây sitim, bọc vàng; rồi lòn đòn vào khoen hai bên hông hòm, để dùng đòn khiêng hòm. Đòn sẽ ở trong khoen luôn, không nên rút ra. Ngươi hãy cất vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho.
  19. “Xuất Êdíptô Ký 25:17-21”. Ngươi cũng hãy làm một cái nắp thi ân [chú giải: ngôi thương xót] bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. Lại làm hai tượng chêrubim bằng vàng dát mỏng, để hai đầu nắp thi ân, ló ra ngoài, một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia. Hai chêrubim sẽ sè cánh ra, che trên nắp thi ân, đối diện nhau và xây mặt vào nắp thi ân. Ngươi hãy để nắp thi ân trên hòm, rồi để vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho.
  20. “Xuất Êdíptô Ký 27:1-8”. Ngươi cũng hãy đóng một bàn thờ bằng cây sitim, hình vuông, năm thước bề dài, năm thước bề ngang, và bề cao ba thước. Nơi bốn góc bàn thờ hãy làm sừng ló ra và bọc đồng. Những đồ phụ tùng của bàn thờ thì hãy làm bằng đồng: bình đựng tro, vá, ảng, nỉa và bình hương. Lại làm cho bàn thờ một tấm rá bằng lưới đồng; và nơi bốn góc rá làm bốn cái khoen bằng đồng; rồi để rá đó dưới thành bàn thờ, từ dưới chân lên đến nửa bề cao. Cũng hãy chuốt đòn khiêng bàn thờ bằng cây sitim, bọc đồng, rồi xỏ vào những khoen; khi khiêng đi, đòn sẽ ở hai bên bàn thờ. Bàn thờ sẽ đóng bằng ván, trống bộng, làm y như đã chỉ cho ngươi trên núi vậy.
  21. 21,0 21,1 “Dân Số Ký 16:42-46”. Khi hội chúng đương hiệp nhau nghịch cùng Môise và Arôn, thì ngó về hướng hội mạc, xảy thấy trụ mây bao phủ hội mạc, và sự vinh quang của Đức Giêhôva hiện ra. Môise và Arôn đến đứng trước hội mạc, Đức Giêhôva phán cùng Môise rằng: Hãy dang ra khỏi giữa hội chúng nầy, thì ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát. Nhưng hai người sấp mặt xuống đất, rồi Môise nói cùng Arôn rằng: Hãy cầm lấy lư hương để lửa từ trên bàn thờ [bàn thờ của lễ thiêu] vào, bỏ hương lên trên, mau mau đi đến hội chúng và làm lễ chuộc tội cho họ; vì sự thạnh nộ của Ðức Giêhôva đã nổi lên, và tai vạ đã phát khởi.
  22. 22,0 22,1 “Lêvi Ký 16:12”. đoạn lấy lư hương đầy than hực đỏ trên bàn thờ [bàn thờ của lễ thiêu] trước mặt Ðức Giêhôva, và một vốc hương bột, mà đem vào phía trong bức màn.
  23. “Xuất Êdíptô Ký 30:17-22”. Đức Giêhôva lại phán cùng Môise nữa rằng: Ngươi hãy làm một cái thùng với chân thùng bằng đồng, đặng rửa mình ở trong, rồi để giữa khoảng của hội mạc và bàn thờ, và đổ nước vào. Arôn cùng các con trai người sẽ rửa tay và chân mình ở trong. Khi họ vào hội mạc sẽ lấy nước rửa mình, hầu cho họ khỏi chết; và khi lại gần bàn thờ đặng phụng sự, tức là xông của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giêhôva, họ cũng phải giữ như vậy. Thế thì, họ hãy rửa tay và chân, hầu cho khỏi chết. Ấy là một lệ đời đời cho Arôn cùng dòng dõi người trải qua các đời.
  24. “Xuất Êdíptô Ký 25:1-9”. Đức Giêhôva phán cùng Môise rằng... Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ. Hãy làm đền đó y như kiểu đền tạm cùng kiểu các đồ dùng mà ta sẽ chỉ cho ngươi.
  25. 25,0 25,1 “Hêbơrơ 8:5”. và giữ sự thờ phượng, sự thờ phượng đó chẳng qua là hình và bóng của những sự trên trời mà thôi, cũng như khi Môise gần dựng đền tạm, thì Đức Chúa Trời phán bảo rằng: Hãy cẩn thận, làm mọi việc theo như kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi.
  26. “Xuất Êdíptô Ký 35:4-19”. Môise nói cùng cả hội chúng Ysơraên rằng: Đây là các lời Đức Giêhôva đã phán dặn: Hãy lấy một lễ vật chi ở nhà các ngươi mà dâng cho Đức Giêhôva. Hễ người nào có lòng thành dâng cho, hãy đem lễ vật cho Đức Giêhôva: vàng, bạc, và đồng; chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, da cá nược, cây sitim, dầu thắp, các thứ hương liệu đặng chế dầu xức và hương thơm, bích ngọc, và các thứ ngọc khác để dùng khảm cho êphót và bảng đeo ngực. Trong vòng các ngươi mấy người khôn ngoan hơn hết hãy đến làm mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn; đền tạm, trại và bong của đền tạm, móc, ván, xà ngang, trụ và lỗ trụ; hòm bảng chứng và đòn khiêng; nắp thi ân cùng màn che nơi chí thánh; cái bàn và đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn cùng bánh trần thiết; chân đèn, đồ phụ tùng, các đèn và dầu thắp đèn; bàn thờ xông hương cùng đòn khiêng; dầu xức, hương liệu, và bức màn cửa đền tạm; bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng; đòn khiêng và các đồ phụ tùng của bàn thờ; cái thùng và chân thùng; bố vi che hành lang, trụ, lỗ trụ, và bức màn của cửa hành lang; các nọc của đền tạm, cùng nọc và dây của hành lang; bộ áo lễ dùng về công việc trong nơi thánh; bộ áo thánh cho Arôn, thầy tế lễ cả, và bộ áo cho các con trai người đặng làm chức tế lễ.
  27. “Xuất Êdíptô Ký 35:20-29”. Cả hội chúng Ysơraên bèn lui ra khỏi mặt Môise. Mọi người có lòng cảm động, và mọi người có lòng thành, đều đem lễ vật đến dâng cho Đức Giêhôva, để làm công việc hội mạc, các đồ phụ tùng và bộ áo thánh. Phàm người nam cùng nữ, tức mọi kẻ có lòng thành, đều đến đem những hoa tai, nhẫn, khâu, kiềng, các thứ trang sức bằng vàng, và hết thảy đều dâng lễ vật bằng vàng cho Đức Giêhôva. Kẻ nào ở nhà mình có chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, và da cá nược đều đem đến. Hễ ai có chi làm lễ vật bằng bạc hay bằng đồng, đều đem dâng cho Đức Giêhôva, và hễ ai có cây sitim nơi nhà mình dùng hiệp về các công việc tế lễ, đều đem đến. Phàm người đàn bà khéo thì chánh tay mình kéo chỉ lấy và đem đến món chi họ đã kéo rồi, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai mịn. Còn mấy người đàn bà có cảm động và tài khéo thì kéo chỉ lông dê. Các bực tôn trưởng trong dân sự đem bích ngọc và các thứ ngọc khác để khảm cho êphót và bảng đeo ngực; dầu thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và dầu thơm. Cả dân Ysơraên, nam hay nữ, phàm ai có lòng cảm động xui cho mình tình nguyện quyên vào các công việc Đức Giêhôva đã phán dặn nơi Môise, đều đem dâng cho Đức Giêhôva các lễ tình nguyện vậy.
  28. “Xuất Êdíptô Ký 35:30-36:7”. Nhưng mỗi buổi sớm mai, dân sự lại đem đến lễ vật tình nguyện nữa... đến nói cùng Môise rằng: Dân sự đem đến dư bội phần đặng làm các công việc mà Đức Giêhôva đã phán dặn. Theo lịnh truyền của Môise, họ bèn đi rao từ trại quân rằng: Bất kỳ người nam hay nữ, chớ làm công việc về lễ vật của nơi thánh nữa! Vậy họ cấm dân sự không cho đem đến chi thêm nữa hết. Vì đã đủ các vật liệu đặng làm hết thảy công việc, cho đến đỗi còn dư lại nữa.
  29. “Dân Số Ký 9:15”. Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.
  30. “Lêvi Ký 1:1”. Ðức Giêhôva từ trong hội mạc gọi Môise mà phán rằng:
  31. “Lêvi Ký 10:1-2”. Hai con trai Arôn, Nađáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết trước mặt Đức Giêhôva.
  32. “Lêvi Ký 16:1-2”. Sau khi hai con trai của Arôn chết trong lúc đến gần trước mặt Đức Giêhôva, thì Ngài phán cùng Môise, mà rằng: Hãy nói cùng Arôn, anh ngươi, chớ vào luôn luôn trong nơi thánh ở phía trong bức màn, trước nắp thi ân trên hòm bảng chứng, e người phải chết chăng; vì ta ở trong mây hiện ra trên nắp thi ân.
  33. “Dân Số Ký 3:5-8”. Đức Giêhôva bèn phán cùng Môise rằng: Hãy khiến chi phái Lêvi lại gần, đặt trước thầy tế lễ Arôn, để người Lêvi phục sự người. Người Lêvi sẽ giữ chức phận của người và chức phận của cả hội chúng về trước hội mạc mà làm những công việc của đền tạm. Cũng phải coi sóc hết thảy đồ đạc của hội mạc và mọi vật chi dân Ysơraên giao cho đặng dùng làm công việc của đền tạm.
  34. “Dân Số Ký 18:21”. Còn về con cháu Lêvi, nầy ta đã ban cho làm cơ nghiệp, mọi thuế một phần mười của Ysơraên làm lương về công việc mình làm trong hội mạc.
  35. “Dân Số Ký 2:1-34”. Đức Giêhôva phán cùng Môise và Arôn rằng: Dân Ysơraên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở dưới bảng hiệu của tông tộc mình, đối ngang nhau vây chung quanh hội mạc. Trại quân Giuđa sẽ đóng tại hướng đông, về phía mặt trời mọc... Quan trưởng của người Giuđa... Chi phái Ysaca phải đóng trại bên Giuđa... Kế đến chi phái Sabulôn... Ngọn cờ của trại quân Rubên và những đội ngũ mình, phải đóng về hướng nam... Chi phái Simêôn phải đóng trại bên Rubên... Kế đến chi phái Gát... hội mạc sẽ đi với trại quân Lêvi, ở giữa các trại quân khác... Ngọn cờ của trại quân Épraim và những quân đội người phải đóng về hướng tây... Chi phái Manase phải đóng trại bên Épraim... Kế đến chi phái Bêngiamin... Ngọn cờ của trại quân Đan và những quân đội họ phải đóng về hướng bắc... Chi phái Ase phải đóng trại bên Đan... Kế đến chi phái Néptali... Nhưng người Lêvi không nhập sổ chung với dân Ysơraên, tùy theo mạng của Đức Giêhôva đã truyền cho Môise. Dân Ysơraên y theo mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn Môise, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình.
  36. “Giôsuê 18:1”. Cả hội chúng dân Ysơraên nhóm hiệp tại Silô, và lập hội mạc tại đó: xứ đều phục trước mặt họ.
  37. “Thi Thiên 122:1”. Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi rằng: Ta hãy đi đến nhà Ðức Giêhôva.
  38. “Thi Thiên 134:1-2”. Hỡi các tôi tớ Ðức Giêhôva, là kẻ ban đêm đứng tại nhà Ngài, Hãy ngợi khen Ðức Giêhôva! Hãy giơ tay lên hướng về nơi thánh, Và ngợi khen Ðức Giêhôva!
  39. “Thi Thiên 114:2”. Thì Giuđa trở nên đền thánh Ngài, Và Ysơraên thành nước Ngài.
  40. “Habacúc 2:20”. Nhưng Ðức Giêhôva ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãy làm thinh!
  41. “Xuất Êdíptô Ký 25:22”. Ta sẽ gặp ngươi tại đó, và ở trên nắp thi ân, giữa hai tượng chêrubim, trên hòm bảng chứng, ta sẽ truyền cho ngươi các mạng lịnh về dân Ysơraên.
  42. “Xuất Êdíptô Ký 31:7”. là hội mạc, hòm bảng chứng, nắp thi ân ở trên hòm, cùng đồ dùng trong hội mạc;
  43. “Xuất Êdíptô Ký 33:8”. Vừa khi Môise ra đến Trại, thì cả dân sự chỗi dậy, mỗi người đứng nơi cửa trại mình, ngó theo Môise cho đến khi nào người vào trong Trại rồi.
  44. “Dân Số Ký 11:26”. Có hai người ở lại trong trại quân; một người tên là Ênđát, một người tên là Mêđát, được Thần cảm động, nói tiên tri tại trại quân. Hai người nầy thuộc về bọn được biên tên, nhưng không có đến hội mạc.
  45. “Sáng Thế Ký 3:24”. Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Êđen các thần chêrubim với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.
  46. “II Samuên 6:6–7”. Khi đến sân đạp lúa của Nacôn, Uxa giơ tay lên nắm hòm của Đức Chúa Trời, bởi vì những con bò vấp ngã. Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva bèn nổi phừng cùng Uxa; Đức Chúa Trời hành hại người vì cớ lầm lỗi người, và người chết tại đó, gần bên hòm của Đức Chúa Trời.
  47. “Lêvi Ký 10:1-2”. Hai con trai Arôn, Nađáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết trước mặt Đức Giêhôva.
  48. “Mathiơ 19:17”. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Sao ngươi hỏi ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng lành mà thôi. Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì phải giữ các điều răn.
  49. “Hêbơrơ 9:22”. không đổ huyết thì không có sự tha thứ.
  50. “Hêbơrơ 10:19-20”. Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Ðức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài,
  51. “Khải Huyền 22:14”. Phước thay cho những kẻ giặt áo mình đặng có phép đến nơi cây sự sống và bởi các cửa mà vào trong thành!
  52. “Khải Huyền 7:14”. Tôi thưa rằng: Lạy chúa, chúa biết điều đó. Người lại phán cùng tôi rằng: Ðó là những kẻ ra khỏi cơn đại nạn, đã giặt và phiếu trắng áo mình trong huyết Chiên Con.