Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lệnh nghỉ việc vào Chủ nhật”

Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4: Dòng 4:


==Tuyên bố lệnh nghỉ Chủ nhật==
==Tuyên bố lệnh nghỉ Chủ nhật==
Hoàng đế Constantine đã chính thức công nhận Cơ Đốc giáo là một trong những tôn giáo hợp pháp của đế quốc thông qua [[sắc lệnh Milan]] vào năm 313, từ đó đã mở ra chính sách ưu đãi Cơ Đốc giáo. Ông đã miễn nghĩa vụ quân sự và thuế cho các chức sắc của Cơ Đốc giáo, đồng thời hợp pháp hóa việc hiến tặng tài sản cho giáo hội Cơ Đốc giáo. Đây là quyền lợi mà các thầy tế lễ của ngoại đạo đã có trước đó, nên không phải là đặc quyền được trao riêng cho Cơ Đốc giáo.<ref>이승희, 〈콘스탄티누스 황제의 신앙과 종교정책(306-324년)〉,《서양고대사연구》 제38권, 한국서양고대역사문화학회, 2014, 132-133쪽, "그[콘스탄티누스]는 성직자들에게 공무와 세금을 면제시켜 주었으며, 321년에는 상속 권한을 법적으로 승인하였다. 또한 주교에게 민사재판권을 양도함으로써 특권을 부여하기도 했다. ... 하지만 공무 및 세금 면제의 특권과 상속 권한은 이미 이교 사제들도 누리던 것이었다. 또한 민사재판권을 인정한 것은 기독교 단체 내의 분란을 자체적으로 해결할 기회를 준 것일 뿐, 교회에 특권을 부여한 것이라고 볼 수는 없다."</ref> Lệnh nghỉ Chủ nhật do Constantine ban hành vào ngày 7 tháng 3 năm 321, được truyền đạt thông qua “[https://www.britannica.com/topic/Code-of-Justinian Bộ luật Justinianus]” biên soạn vào thế kỷ 6.  
Hoàng đế Constantine đã chính thức công nhận Cơ Đốc giáo là một trong những tôn giáo hợp pháp của đế quốc thông qua [[sắc lệnh Milan]] vào năm 313, từ đó đã mở ra chính sách ưu đãi Cơ Đốc giáo. Ông đã miễn nghĩa vụ quân sự và thuế cho các chức sắc của Cơ Đốc giáo, đồng thời hợp pháp hóa việc hiến tặng tài sản cho giáo hội Cơ Đốc giáo. Đây là quyền lợi mà các thầy tế lễ của ngoại đạo đã có trước đó, nên không phải là đặc quyền được trao riêng cho Cơ Đốc giáo.<ref>Lee Seung Hee, 〈Chính sách tôn giáo và đức tin của Hoàng đế Constantine (năm 306-324)〉,《Nghiên cứu lịch sử cổ đại phương Tây》 Tập 38, Hiệp hội lịch sử và văn hóa cổ đại Hàn Quốc, 2014, trang 132-133, “Ông [Constantine ] miễn công vụ và thuế cho các chức sắc, và vào năm 321, đã chấp thuận hợp pháp quyền thừa kế. Ông cũng trao các đặc quyền bằng cách chuyển giao quyền tài phán dân sự cho các giám mục. ... Tuy nhiên, các đặc quyền được miễn công vụ và thuế cũng như quyền thừa kế đã được các linh mục ngoại giáo hưởng thụ. Ngoài ra, việc công nhận quyền tài phán dân sự chỉ tạo cơ hội để tự giải quyết các tranh chấp trong các tổ chức Cơ Đốc giáo chứ không thể coi là trao đặc quyền cho nhà thờ”.</ref> Lệnh nghỉ Chủ nhật do Constantine ban hành vào ngày 7 tháng 3 năm 321, được truyền đạt thông qua “[https://www.britannica.com/topic/Code-of-Justinian Bộ luật Justinianus]” biên soạn vào thế kỷ 6.  
{{인용문|“Mọi quan án, thị dân và người thợ phải nghỉ vào Chủ nhật là '''ngày mặt trời tôn nghiêm (Sunday)!'''” Nhưng người nông dân vẫn có thể làm ruộng mà không bị cản trở. Bởi vì đôi khi ngày này là ngày thuận tiện nhất để gieo hạt hay thu hoạch. ... Ngày 7 tháng 3 năm 321 SCN.”<br>Sắc lệnh của Constantine (Bộ luật Justinianus <Cod. Justinianus>, Ⅲ xii 3)|A Lion Handbook, 《The History of Christianity》, Song Kwang Taek dịch, NXB Lời Sự Sống, 1997, trang 144}}  
{{인용문|“Mọi quan án, thị dân và người thợ phải nghỉ vào Chủ nhật là '''ngày mặt trời tôn nghiêm (Sunday)!'''” Nhưng người nông dân vẫn có thể làm ruộng mà không bị cản trở. Bởi vì đôi khi ngày này là ngày thuận tiện nhất để gieo hạt hay thu hoạch. ... Ngày 7 tháng 3 năm 321 SCN.”<br>Sắc lệnh của Constantine (Bộ luật Justinianus <Cod. Justinianus>, Ⅲ xii 3)|A Lion Handbook, 《The History of Christianity》, Song Kwang Taek dịch, NXB Lời Sự Sống, 1997, trang 144}}  
Thông qua biểu hiện “ngày mặt trời tôn nghiêm” trong sắc lệnh này, có thể thấy Constantine đã nhận thức rằng Chủ nhật là ngày thờ lạy thần mặt trời hơn là ngày thờ phượng của Cơ Đốc giáo. Tôn giáo có sức ảnh hưởng nhất ở La Mã lúc bấy giờ là [https://www.britannica.com/topic/Mithraism đạo Mithra], đạo sùng bái thần mặt trời Mithra. Đạo Mithra coi Chủ nhật là ngày thánh. Lệnh nghỉ vào Chủ nhật không chỉ là chính sách nâng đỡ cho các Cơ Đốc nhân ở khu vực La Mã vốn dâng thờ phượng vào Chủ nhật từ sau thế kỷ thứ 2, mà còn cho những người theo đạo Mithra, chiếm phần đông trong dân số La Mã đương thời.
Thông qua biểu hiện “ngày mặt trời tôn nghiêm” trong sắc lệnh này, có thể thấy Constantine đã nhận thức rằng Chủ nhật là ngày thờ lạy thần mặt trời hơn là ngày thờ phượng của Cơ Đốc giáo. Tôn giáo có sức ảnh hưởng nhất ở La Mã lúc bấy giờ là [https://www.britannica.com/topic/Mithraism đạo Mithra], đạo sùng bái thần mặt trời Mithra. Đạo Mithra coi Chủ nhật là ngày thánh. Lệnh nghỉ vào Chủ nhật không chỉ là chính sách nâng đỡ cho các Cơ Đốc nhân ở khu vực La Mã vốn dâng thờ phượng vào Chủ nhật từ sau thế kỷ thứ 2, mà còn cho những người theo đạo Mithra, chiếm phần đông trong dân số La Mã đương thời.
Dòng 11: Dòng 11:
===Tư tưởng của Constantine===
===Tư tưởng của Constantine===
[[file:ChristAsSol.jpg|thumb|240px|Được cho biết rằng Constantine đã coi thần mặt trời mà mình yêu thích nhất và Đấng Christ của Cơ Đốc giáo là một vị thần đồng nhất. Tranh khảm vào thế kỷ thứ 4 mô tả Đấng Christ là thần mặt trời.]]
[[file:ChristAsSol.jpg|thumb|240px|Được cho biết rằng Constantine đã coi thần mặt trời mà mình yêu thích nhất và Đấng Christ của Cơ Đốc giáo là một vị thần đồng nhất. Tranh khảm vào thế kỷ thứ 4 mô tả Đấng Christ là thần mặt trời.]]
Một số Cơ Đốc nhân chủ trương rằng hoàng đế Constantine đã cải đạo sang Cơ Đốc giáo và có đức tin chân thật đối với [[Đức Chúa Trời]]. Song, ông ta đã trì hoãn việc làm phép rửa tội cho đến cuối đời,<ref>존 줄리어스 노리치, 《비잔티움 연대기1: 창건과 혼란》, 남경태 역, 바다출판사, 2007, 52-55쪽, "콘스탄티누스의 개종은 과연 완전한 것이었을까? ... 적어도 324년까지는 무적의 태양과 결부된 그의 모습이 주화에 계속 묘사되었다. 또한 그보다 더 중요한 사실로, 그는 여전히 세례를 받는 것에 대해 망설였다. 이후 그는 사반세기 뒤에 죽음을 앞둔 무렵까지 세례를 미루게 된다. 이런 그의 태도는 어느 정도 정치적인 고려에서 나온 것일 수도 있다."</ref> cố tình coi thần mặt trời mà mình yêu thích nhất và [[Đấng Christ]] của Cơ Đốc giáo là một vị thần đồng nhất.
Một số Cơ Đốc nhân chủ trương rằng hoàng đế Constantine đã cải đạo sang Cơ Đốc giáo và có đức tin chân thật đối với [[Đức Chúa Trời]]. Song, ông ta đã trì hoãn việc làm phép rửa tội cho đến cuối đời,<ref>John Julius Norwich, 《Biên niên sử Byzantine 1: Sự sáng lập và sự hỗn loạn》, Nam Kyung Tae dịch, 1.     Nhà xuất bản Bada, 2007, trang 52-55, "Sự cải đạo của Constantine đã thực sự hoàn toàn chưa? ... Hình ảnh của ông gắn liền với mặt trời bất khả chiến bại tiếp tục được khắc họa trên tiền xu cho đến ít nhất là năm 324. Và quan trọng hơn, ông vẫn còn do dự về việc chịu lễ rửa tội. Sau đó, ông hoãn lễ rửa tội cho đến khoảng một phần tư thế kỷ sau là lúc ngay trước khi ông qua đời. Thái độ của ông có thể xuất phát từ những cân nhắc chính trị ở một mức độ nào đó.</ref> cố tình coi thần mặt trời mà mình yêu thích nhất và [[Đấng Christ]] của Cơ Đốc giáo là một vị thần đồng nhất.
{{인용문|Constantine đã liên tục giữ chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm ngoại bang, với danh hiệu là '''Pontifex Maximus''' (chức vụ tối cao trong giới tôn giáo La Mã), và trong suốt một thập kỷ, '''đồng tiền của ông có biểu tượng của thần ngoại bang, là thần mặt trời bất diệt mà ông yêu thích nhất'''... ... Sự hiểu biết về việc tôn kính mặt trời, một tôn giáo từ trước thời Constantine là điều rất quan trọng. ... '''Mặt khác, Constantine đã liên tục coi mặt trời đồng nhất với Đức Chúa Trời của Cơ Đốc giáo.''' Niềm tin này dễ dàng được đánh đồng hơn bởi xu hướng của các nhà văn và họa sĩ Cơ Đốc giáo sử dụng hình ảnh mặt trời trong các bức tranh miêu tả về Đấng Christ. Đối với họ, Đấng Christ là nguồn của sự sáng và sự cứu rỗi, và trong bức tranh khảm ở một ngôi mộ vào thế kỷ thứ 3, được tìm thấy dưới Thánh đường thánh Phierơ ở Rome đã mô tả Đấng Christ như là thần mặt trời đang cưỡi trên cỗ xe ngựa. Vào năm 321, khi Constantine quy định ngày thứ nhất trong tuần là ngày nghỉ, ông đã đặt tên ngày đó là '''“ngày tôn kính mặt trời (Sunday)”'''|A Lion Handbook, 《The History of Christianity》, Song Kwang Taek dịch, NXB Lời Sự Sống, 1997, trang 130-131}}
{{인용문|Constantine đã liên tục giữ chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm ngoại bang, với danh hiệu là '''Pontifex Maximus''' (chức vụ tối cao trong giới tôn giáo La Mã), và trong suốt một thập kỷ, '''đồng tiền của ông có biểu tượng của thần ngoại bang, là thần mặt trời bất diệt mà ông yêu thích nhất'''... ... Sự hiểu biết về việc tôn kính mặt trời, một tôn giáo từ trước thời Constantine là điều rất quan trọng. ... '''Mặt khác, Constantine đã liên tục coi mặt trời đồng nhất với Đức Chúa Trời của Cơ Đốc giáo.''' Niềm tin này dễ dàng được đánh đồng hơn bởi xu hướng của các nhà văn và họa sĩ Cơ Đốc giáo sử dụng hình ảnh mặt trời trong các bức tranh miêu tả về Đấng Christ. Đối với họ, Đấng Christ là nguồn của sự sáng và sự cứu rỗi, và trong bức tranh khảm ở một ngôi mộ vào thế kỷ thứ 3, được tìm thấy dưới Thánh đường thánh Phierơ ở Rome đã mô tả Đấng Christ như là thần mặt trời đang cưỡi trên cỗ xe ngựa. Vào năm 321, khi Constantine quy định ngày thứ nhất trong tuần là ngày nghỉ, ông đã đặt tên ngày đó là '''“ngày tôn kính mặt trời (Sunday)”'''|A Lion Handbook, 《The History of Christianity》, Song Kwang Taek dịch, NXB Lời Sự Sống, 1997, trang 130-131}}
“[https://www.livius.org/articles/concept/pontifex-maximus/ Pontifex Maximus]” là tên gọi bằng tiếng Latinh chỉ về thầy tế lễ tối cao trong giới chức tư tế của nhà nước La Mã. Constantine vẫn giữ danh hiệu này cho đến tận khi chết. Ngoài ra, trên solidus - một loại đồng tiền vàng của đế quốc La Mã từng được lưu hành, có khắc hình ảnh thần mặt trời.
“[https://www.livius.org/articles/concept/pontifex-maximus/ Pontifex Maximus]” là tên gọi bằng tiếng Latinh chỉ về thầy tế lễ tối cao trong giới chức tư tế của nhà nước La Mã. Constantine vẫn giữ danh hiệu này cho đến tận khi chết. Ngoài ra, trên solidus - một loại đồng tiền vàng của đế quốc La Mã từng được lưu hành, có khắc hình ảnh thần mặt trời.


===Phương tiện để hợp nhất đế quốc===
===Phương tiện để hợp nhất đế quốc===
Vì mục đích chính trị, Constantine đã chọn Cơ Đốc giáo làm công cụ để củng cố quyền lực của mình và thống nhất đế quốc La Mã. Khi Constantine lên ngôi phó hoàng đế, La Mã theo thể chế Tứ đầu chế ([https://www.doopedia.co.kr/doopedia/master/master.do?_method=view&MAS_IDX=101013000744994 Tetrarchy]), phân chia đế quốc thành 4 khu vực, được cai trị bởi 2 hoàng đế và 2 phó hoàng đế. Vốn muốn thống nhất đế quốc La Mã đang liên tục phân tranh và không muốn quyền lực của mình bị cướp mất, Constantine đã coi Cơ Đốc giáo tin vào một thần duy nhất là phù hợp với mục đích của mình. Một nhà sử học Nhật Bản có tầm ảnh hưởng trong lịch sử học về đế chế Byzantine đã trích dẫn sách Rôma chương 13<ref>{{Chú thích web|url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/로마서#13장|title=로마서 13:1-2|quote=각 사람은 위에 있는 권세들에게 굴복하라 권세는 하나님께로 나지 않음이 없나니 모든 권세는 다 하나님의 정하신 바라 그러므로 권세를 거스리는 자는 하나님의 명을 거스림이니 거스리는 자들은 심판을 자취하리라}}</ref> và nhận xét rằng “Tôi nghĩ sự kết hợp giữa đế quốc La Mã và Cơ Đốc giáo là một điều hiển nhiên” và “Đối với người cai trị thì thật khó để tìm thấy một sự dạy dỗ nào khác phù hợp được đến thế”.<ref>이노우에 고이치, 《살아남은 로마, 비잔틴제국》, 이경덕 역, 다른세상, 2010, 46-49쪽.</ref> Sự dạy dỗ của [[Kinh Thánh]] giáo huấn rằng quyền lực của người cai trị đến từ Đức Chúa Trời và nên làm theo người cầm quyền, ấy là điều thỏa mãn nhu cầu của Constantine vốn mong muốn một tồn tại trao quyền lực không thể lay chuyển cho hoàng đế.<br>
Vì mục đích chính trị, Constantine đã chọn Cơ Đốc giáo làm công cụ để củng cố quyền lực của mình và thống nhất đế quốc La Mã. Khi Constantine lên ngôi phó hoàng đế, La Mã theo thể chế Tứ đầu chế ([https://www.doopedia.co.kr/doopedia/master/master.do?_method=view&MAS_IDX=101013000744994 Tetrarchy]), phân chia đế quốc thành 4 khu vực, được cai trị bởi 2 hoàng đế và 2 phó hoàng đế. Vốn muốn thống nhất đế quốc La Mã đang liên tục phân tranh và không muốn quyền lực của mình bị cướp mất, Constantine đã coi Cơ Đốc giáo tin vào một thần duy nhất là phù hợp với mục đích của mình. Một nhà sử học Nhật Bản có tầm ảnh hưởng trong lịch sử học về đế chế Byzantine đã trích dẫn sách Rôma chương 13<ref>{{Chú thích web|url=https://vi.wikisource.org/wiki/R%C3%B4-ma/13|title=Rôma 13:1-2|quote=Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình; vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định. Cho nên ai chống cự quyền phép, tức là đối địch với mạng lịnh Đức Chúa Trời đã lập; và những kẻ đối địch thì chuốc lấy sự phán xét vào mình.|url-status=live}}</ref> và nhận xét rằng “Tôi nghĩ sự kết hợp giữa đế quốc La Mã và Cơ Đốc giáo là một điều hiển nhiên” và “Đối với người cai trị thì thật khó để tìm thấy một sự dạy dỗ nào khác phù hợp được đến thế”.<ref>Koichi Inoue, 《Rome sống sót, Đế chế Byzantine》, Lee Kyung Deok dịch, Another World, 2010, trang 46-49.</ref> Sự dạy dỗ của [[Kinh Thánh]] giáo huấn rằng quyền lực của người cai trị đến từ Đức Chúa Trời và nên làm theo người cầm quyền, ấy là điều thỏa mãn nhu cầu của Constantine vốn mong muốn một tồn tại trao quyền lực không thể lay chuyển cho hoàng đế.<br>
Hơn nữa, đối với Constantine, Cơ Đốc giáo là phương tiện để gắn kết toàn bộ đế quốc La Mã thành một.
Hơn nữa, đối với Constantine, Cơ Đốc giáo là phương tiện để gắn kết toàn bộ đế quốc La Mã thành một.
{{인용문|Chắc hẳn là Constantine đã bắt đầu với suy nghĩ rõ ràng về việc sẽ ủng hộ hội thánh, tuy nhiên dù làm được như vậy, thì việc xoa dịu những người ngoại đạo cũng rất cần thiết. Theo đó, chính sách được thống nhất tại Milan là một sự công nhận tất thảy các tôn giáo là hoàn toàn bình đẳng. Tuy nhiên, Constantine càng ngày càng ủng hộ các Cơ Đốc nhân hơn trong khi trị vì; và chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng '''mục đích của ông ta là nhằm khiến Cơ Đốc giáo đóng vai trò của xi măng để gắn kết toàn đế quốc thành một khối.'''|J. W. C. Wand, 《Sử Hội Thánh (Tập 1)》, Lee Jang Sik dịch, Hội Văn thư Cơ Đốc giáo Đại Hàn, 2000, trang 192}}
{{인용문|Chắc hẳn là Constantine đã bắt đầu với suy nghĩ rõ ràng về việc sẽ ủng hộ hội thánh, tuy nhiên dù làm được như vậy, thì việc xoa dịu những người ngoại đạo cũng rất cần thiết. Theo đó, chính sách được thống nhất tại Milan là một sự công nhận tất thảy các tôn giáo là hoàn toàn bình đẳng. Tuy nhiên, Constantine càng ngày càng ủng hộ các Cơ Đốc nhân hơn trong khi trị vì; và chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng '''mục đích của ông ta là nhằm khiến Cơ Đốc giáo đóng vai trò của xi măng để gắn kết toàn đế quốc thành một khối.'''|J. W. C. Wand, 《Sử Hội Thánh (Tập 1)》, Lee Jang Sik dịch, Hội Văn thư Cơ Đốc giáo Đại Hàn, 2000, trang 192}}
Dòng 24: Dòng 24:
===Xác lập thờ phượng Chủ nhật===
===Xác lập thờ phượng Chủ nhật===
Vào đầu thế kỷ thứ 2, hội thánh Tây phương có trung tâm là La Mã đang được vận hành bởi nòng cốt là các tín đồ ngoại bang, đã có ác cảm mạnh mẽ với giáo Giuđa vì đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên [[thập tự giá]] và liên tục bắt bớ Cơ Đốc giáo. Khi hai cuộc chiến tranh Do Thái nổ ra và đế quốc La Mã theo đuổi chính sách đàn áp người Giuđa, các tín đồ hội thánh Tây phương đã nghĩ rằng không nhất thiết phải chịu thêm nhiều sự bắt bớ từ đế quốc La Mã bởi cố giữ ngày Sabát mà họ đang giữ cùng một ngày với giáo Giuđa. Họ cũng có suy nghĩ rằng nếu lấy Chủ nhật, là ngày thánh của đạo thần mặt trời Mithra vốn được yêu thích nhất ở La Mã lúc bấy giờ làm ngày thờ phượng, thì sẽ dễ dàng chiếm được cảm tình của người La Mã hơn, tránh được sự bắt bớ và khiến người La Mã cải đạo nhiều hơn. Do đó, hội thánh La Mã đã bắt đầu giữ thờ phượng vào Chủ nhật thay cho ngày Sabát từ đầu thế kỷ 2.<br>
Vào đầu thế kỷ thứ 2, hội thánh Tây phương có trung tâm là La Mã đang được vận hành bởi nòng cốt là các tín đồ ngoại bang, đã có ác cảm mạnh mẽ với giáo Giuđa vì đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên [[thập tự giá]] và liên tục bắt bớ Cơ Đốc giáo. Khi hai cuộc chiến tranh Do Thái nổ ra và đế quốc La Mã theo đuổi chính sách đàn áp người Giuđa, các tín đồ hội thánh Tây phương đã nghĩ rằng không nhất thiết phải chịu thêm nhiều sự bắt bớ từ đế quốc La Mã bởi cố giữ ngày Sabát mà họ đang giữ cùng một ngày với giáo Giuđa. Họ cũng có suy nghĩ rằng nếu lấy Chủ nhật, là ngày thánh của đạo thần mặt trời Mithra vốn được yêu thích nhất ở La Mã lúc bấy giờ làm ngày thờ phượng, thì sẽ dễ dàng chiếm được cảm tình của người La Mã hơn, tránh được sự bắt bớ và khiến người La Mã cải đạo nhiều hơn. Do đó, hội thánh La Mã đã bắt đầu giữ thờ phượng vào Chủ nhật thay cho ngày Sabát từ đầu thế kỷ 2.<br>
Hội thánh Tây phương đã làm ra nhiều lý lẽ đa dạng để hợp lý hóa cho việc thờ phượng vào Chủ nhật. Để ủng hộ Cơ Đốc giáo, vào khoảng năm 150, Justinus, một nhà biện giáo đã cải đạo từ ngoại giáo sang Cơ Đốc giáo, đã giải thích cho hoàng đế La Mã Antoninus Pius (tại vị: năm 138-161) trong Lời biện giải tập 1 rằng “Vì ngày Đức Chúa Trời bắt đầu sáng tạo thế gian và ngày Đức Chúa Jêsus Christ [[phục sinh]] là ngày của mặt trời, tức là ngày thứ nhất trong tuần, nên các Cơ Đốc nhân dâng thờ phượng vào ngày này”.<ref>유충희, 《예수의 최후만찬과 초대교회의 성만찬 연구》, 우리신학연구소, 1999, 152-158쪽, "[유스티누스, 제1변증서] 67, 7. 우리 모두는 일요일에 공동체 모임을 가집니다. 그 까닭인즉, 일요일은 하나님께서 어두움과 물질을 변화시켜 세상을 창조하신 첫날이었기 때문이요, 아울러 우리 구원자이신 예수 그리스도께서 죽은 이들로부터 같은 날 부활하셨기 때문입니다. 즉 그들(유대인들)은 토요일 전날에 그리스도를 십자가에 못박았으며, 그분은 토요일 다음 날, 즉 일요일에 당신의 사도들과 제자들에게 나타나셨으며, 우리가 여러분에게 숙고하도록 전해준 것을 그들에게 가르치셨습니다."</ref><br>   
Hội thánh Tây phương đã làm ra nhiều lý lẽ đa dạng để hợp lý hóa cho việc thờ phượng vào Chủ nhật. Để ủng hộ Cơ Đốc giáo, vào khoảng năm 150, Justinus, một nhà biện giáo đã cải đạo từ ngoại giáo sang Cơ Đốc giáo, đã giải thích cho hoàng đế La Mã Antoninus Pius (tại vị: năm 138-161) trong Lời biện giải tập 1 rằng “Vì ngày Đức Chúa Trời bắt đầu sáng tạo thế gian và ngày Đức Chúa Jêsus Christ [[phục sinh]] là ngày của mặt trời, tức là ngày thứ nhất trong tuần, nên các Cơ Đốc nhân dâng thờ phượng vào ngày này”.<ref>Yoo Chung Hee, 《Nghiên cứu bữa ăn tối cuối cùng của Jêsus và lễ tiệc thánh trong Hội Thánh sơ khai》, Viện nghiên cứu Thần học Woori, 1999, trang 152-158, [Justinus, Lời biện giải tập 1] 67, 7. Tất cả chúng ta đều có một cuộc họp cộng đồng vào Chủ nhật. Đó là bởi vì Chủ nhật là ngày đầu tiên Đức Chúa Trời tạo dựng thế giới bằng cách thay đổi bóng tối và vật chất, và cũng bởi vì Đức Chúa Jêsus Christ, Đấng Cứu Chúa của chúng ta, đã sống lại từ cõi chết vào cùng ngày đó. Nghĩa là, họ (người Do Thái) đã đóng đinh Đấng Christ vào đêm trước Thứ Bảy, và vào hôm sau thứ Bảy, tức là vào Chủ nhật, Ngài hiện ra với các sứ đồ và môn đồ của Ngài và dạy họ những gì chúng tôi đã truyền lại cho các bạn để xem xét.</ref><br>   
Như thế, hội thánh Tây phương đã sớm từ bỏ ngày Sabát của [[giao ước mới]] và thờ phượng vào Chủ nhật, nhưng Hội Thánh Đông phương vẫn giữ ngày Sabát Thứ Bảy theo tấm gương của Đức Chúa Jêsus và các sứ đồ cho đến khi lệnh nghỉ Chủ nhật được ban hành.<ref>{{Chú thích web|url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/누가복음#4장|title=누가복음 4:16|quote=예수께서 그 자라나신 곳 나사렛에 이르사 안식일에 자기 규례대로 회당에 들어가사 성경을 읽으려고 서시매}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://ko.wikisource.org/wiki/개역한글판/사도행전#17장|title=사도행전 17:2-3|quote=바울이 자기의 규례대로 저희에게로 들어가서 세 안식일에 성경을 가지고 강론하며 뜻을 풀어 그리스도가 해를 받고 죽은 자 가운데서 다시 살아야 할 것을 증명하고 이르되 내가 너희에게 전하는 이 예수가 곧 그리스도라 하니}}</ref>
Như thế, hội thánh Tây phương đã sớm từ bỏ ngày Sabát của [[giao ước mới]] và thờ phượng vào Chủ nhật, nhưng Hội Thánh Đông phương vẫn giữ ngày Sabát Thứ Bảy theo tấm gương của Đức Chúa Jêsus và các sứ đồ cho đến khi lệnh nghỉ Chủ nhật được ban hành.<ref>{{Chú thích web|url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lu-ca/4|title=Luca 4:16|quote=Đức Chúa Jêsus đến thành Naxarét, là nơi dưỡng dục Ngài. Theo thói quen, nhằm ngày Sabát, Ngài vào nhà hội, đứng dậy và đọc.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%B4ng_v%E1%BB%A5_c%C3%A1c_S%E1%BB%A9_%C4%91%E1%BB%93/17|title=Công Vụ Các Sứ Đồ 17:2-3|quote=Phaolô tới nhà hội theo thói quen mình, và trong ba ngày Sabát biện luận với họ, lấy Kinh thánh cắt nghĩa và giải tỏ tường về Đấng Christ phải chịu thương khó, rồi từ kẻ chết sống lại. Người nói rằng Đấng Christ nầy, tức là Đức Chúa Jêsus mà ta rao truyền cho các ngươi.|url-status=live}}</ref>
{{인용문|Thế kỷ thứ 2, thời đại sau sứ đồ (năm 100-313) <br>Về thời gian thờ phượng, '''lễ thờ phượng ngày Sabát đã được kéo dài cho đến thời kỳ này''' với tư cách là thờ phượng hàng tuần, nhưng dần dần bị thay thế bằng ngày thứ nhất trong tuần, tức là Chủ nhật, vào cuối thời kỳ này.|Song Nak Won, 《Sử Hội Thánh》, NXB Lee Geon, 1981, trang 101}}
{{인용문|Thế kỷ thứ 2, thời đại sau sứ đồ (năm 100-313) <br>Về thời gian thờ phượng, '''lễ thờ phượng ngày Sabát đã được kéo dài cho đến thời kỳ này''' với tư cách là thờ phượng hàng tuần, nhưng dần dần bị thay thế bằng ngày thứ nhất trong tuần, tức là Chủ nhật, vào cuối thời kỳ này.|Song Nak Won, 《Sử Hội Thánh》, NXB Lee Geon, 1981, trang 101}}
{{인용문|Constantine Đại đế ban ra sắc lệnh đầu tiên, bắt buộc công vụ hành chính và tư pháp nghỉ vào Chủ nhật, rồi cấm việc huấn luyện quân đội và cấm xem công diễn vào ngày này. Song, ông không có ý định chuyển chế độ ngày Sabát của Cựu Ước sang Chủ nhật. '''Ở Đông phương vẫn giữ Thứ Bảy là ngày Sabát'''.|Lee Jong Gi,《Sử hội thánh》,NXB Văn hóa Sejong, 1992, trang 145}}
{{인용문|Constantine Đại đế ban ra sắc lệnh đầu tiên, bắt buộc công vụ hành chính và tư pháp nghỉ vào Chủ nhật, rồi cấm việc huấn luyện quân đội và cấm xem công diễn vào ngày này. Song, ông không có ý định chuyển chế độ ngày Sabát của Cựu Ước sang Chủ nhật. '''Ở Đông phương vẫn giữ Thứ Bảy là ngày Sabát'''.|Lee Jong Gi,《Sử hội thánh》,NXB Văn hóa Sejong, 1992, trang 145}}
542

lần sửa đổi

Bảng điều hướng