12 chi phái

Từ Từ điển tri thức Hội Thánh của Đức Chúa Trời
Phiên bản vào lúc 08:07, ngày 2 tháng 12 năm 2024 của Pyc1948 (thảo luận | đóng góp) (Pyc1948 đã đổi Draft:12 chi phái thành 12 chi phái)
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Xứ Canaan được phân chia cho 12 chi phái Ysơraên

12 chi phái (Twelve Tribes) là mười hai gia tộc có nguồn gốc từ 12 con trai của Giacốp, là tổ phụ của Ysơraên.[1][2] Giacốp đã vật lộn với Đức Chúa Trời tại rạch Giabốc và được thắng, từ đó mới được đặt tên là “Ysơraên”, nghĩa là “vật lộn với Đức Chúa Trời và được thắng”. Giacốp có 12 con trai với 2 người vợ là Lêa và Rachên, cùng hai nàng hầu là Bila và Xinhba. Con cháu của 12 người con trai đã tăng trưởng lên nhiều và hình thành các “chi phái” riêng biệt. Chi phái là đơn vị cơ bản để người dân Ysơraên hình thành nên xã hội, tương tự với khái niệm “bộ tộc”.[3]
Trong quá khứ, Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham rằng sẽ ban xứ Canaan làm cơ nghiệp đời đời cho con cháu ông sau này.[4] Để làm ứng nghiệm lời hứa ấy, Ngài đã phân chia xứ Canaan theo từng chi phái cho người dân Ysơraên đã đi vào xứ Canaan theo sự chỉ huy của Giôsuê.[5] Trong số đó, chi phái Giuđa và chi phái Épraim sau này đã lần lượt trở thành các chi phái trung tâm của vương quốc Nam Giuđavương quốc Bắc Ysơraên vào thời kỳ vương quốc bị phân chia.

Nguồn gốc của 12 chi phái

Giacốp đã vật lộn với Đức Chúa Trời và được thắng, bởi đó Đức Chúa Trời đặt tên cho ông là “Ysơraên”. Đức Chúa Trời đã hứa với Giacốp rằng sẽ làm cho dòng dõi của ông thành một dân tộc lớn. Theo lời hứa của Đức Chúa Trời, Giacốp sanh được 12 con trai từ 2 người vợ chính là Lêa và Rachên, cùng các nàng hầu là Bila và Xinhba. Con cháu của 12 người con trai này đã phát triển mạnh mẽ và hình thành nên các chi phái của Ysơraên. Còn được gọi là “12 chi phái”.

  • 12 con trai của Giacốp trở thành nền tảng của 12 chi phái
1 2 3 4 5 6
Rubên

(רְאוּבֵן)[6]

Simêôn

(שִׁמְעוֹן)[7]

Lêvi

(לֵוִי)[8]

Giuđa

(יְהוּדָה)[9]

Đan

(דָּן)[10]

Néptali

(נַפְתָּלִי)[11]

Lêa Bila (Con đòi của Rachên)
7 8 9 10 11 12
Gát (גָּד)[12] Ase (אָשֵׁר)[13] Ysaca

(יִשָּׂשׂכָר)[14]

Sabulôn

(זְבוּלוּן)[15]

Giôsép

(יְהוֹסֵף)[16]

Bêngiamin

(בִּנְיָמִין)[17]

Xinhba (Con đòi của Lêa) Lêa Rachên

Vì đây là tên gọi bắt nguồn từ 12 con trai của Giacốp, nên 12 chi phái ban đầu được gọi là Rubên, Simêôn, Lêvi, Giuđa, Đan, Néptali, Gát, Ase, Ysaca, Sabulôn, Giôsép và Bêngiamin. Ngay cả khi 12 viên ngọc được gắn trên bảng đeo ngực của thầy tế lễ thượng phẩm, Đức Chúa Trời cũng cho khắc tên 12 con trai của Giacốp, nghĩa là 12 chi phái Ysơraên.[18] Tên của 12 con trai này đã trở thành 12 chi phái tượng trưng cho cả dân tộc Ysơraên.
Trước khi qua đời, Giacốp đã để lại di chúc và lời chúc phước cho 12 con trai của mình, và Môise cũng vì con cháu Ysơraên mà chúc phước cho từng chi phái trước khi qua đời.[1][19] Lời chúc phước này đã trở thành lời tiên tri về tương lai của mỗi chi phái, và tất cả đã được ứng nghiệm trong lịch sử Ysơraên.

Tên của các chi phái Ysơraên

Thuật ngữ “12 chi phái” bắt nguồn từ 12 con trai của Giacốp, là cách diễn đạt mang tính biểu tượng chỉ về dân tộc Ysơraên, nhưng trên thực tế các chi phái Ysơraên xuất hiện trong Kinh Thánh có tổng cộng 14 tên gọi, đó là chi phái Rubên, chi phái Simêôn, chi phái Lêvi, chi phái Giuđa, chi phái Đan, chi phái Néptali, chi phái Gát, chi phái Ase, chi phái Ysaca, chi phái Sabulôn, chi phái Giôsép, chi phái Épraim, chi phái Manase và chi phái Bêngiamin.
Sở dĩ 2 chi phái được thêm vào là vì trước khi qua đời, Giacốp đã coi Épraim và Manase - 2 con trai của Giôsép như con ruột của mình, nên dòng dõi của Giôsép sau này trở thành 2 chi phái là chi phái Épraim và chi phái Manase.[20][21]
Còn chi phái Lêvi đã được Đức Chúa Trời biệt riêng ra thánh, hầu cho họ làm sở hữu của Ngài và giao phó công việc coi sóc đền tạm, nên khi tu bộ dân số nhằm đếm số nam đinh trên 20 tuổi có thể ra trận thì không bao gồm số lượng con cháu Lêvi, và kể cả khi phân chia xứ Canaan, không giống với các chi phái khác, chi phái Lêvi chỉ được cấp cho các làng xung quanh và thành ấp để cư ngụ.[22]

  • Chi phái Ysơraên
Tên chi phái Tên của mẹ Ý nghĩa của các tên Phân chia xứ Canaan (lấy sông Giôđanh làm tiêu chuẩn) Nhân vật xuất thân từ chi phái này
1 Rubên Lêa Này, hãy coi một đứa con trai Khu vực miền nam, phía đông sông Giôđanh
2 Simêôn Lêa (Đức Chúa Trời) nghe biết Khu vực miền nam, phía tây sông Giôđanh
3 Lêvi Lêa Người dính díu (kết hợp) Không được phân chia đất đai Môise, Giăng Báptít
4 Giuđa Lêa Ngợi khen Khu vực miền nam, phía tây sông Giôđanh Calép, Đavít, Đức Chúa Jêsus
5 Đan Bila
(Con đòi của Rachên)
Giải oan, sự xét công bình của Đức Giêhôva Khu vực miền trung, phía tây sông Giôđanh Samsôn
6 Néptali Bila
(Con đòi của Rachên)
Cạnh tranh, đấu địch Vùng núi Galilê, phía tây sông Giôđanh
7 Gát Xinhba
(Con đòi của Lêa)
Phước Khu vực miền trung, phía đông sông Giôđanh Giépthê
8 Ase Xinhba
(Con đòi của Lêa)
Vui mừng, hạnh phúc Bờ biển Địa Trung Hải, miền bắc, phía tây sông Giôđanh
9 Ysaca Lêa Người sẽ đền công cho Miền bắc, phía tây sông Giôđanh Thôla, Baêsa
10 Sabulôn Lêa Ở cùng tôi Khu vực Galilê, phía tây sông Giôđanh Êlôn, Giôna
11 Giôsép Rachên Đức Chúa Trời sẽ thêm cho Không có
12 Épraim Áchnát Thịnh vượng, hưng vượng bằng hai Khu vực miền trung, phía tây sông Giôđanh Giôsuê, Đêbôra
13 Manase Áchnát Kẻ làm cho ta quên Khu vực miền bắc Galaát về phía đông sông Giôđanh và khu vực miền trung bắc về phía tây sông Giôđanh. Ghêđêôn
14 Bêngiamin Rachên Con trai tay hữu Khu vực miền trung nam, phía tây sông Giôđanh

Sự thay đổi của danh sách 12 chi phái

Có tổng cộng 14 chi phái xuất hiện trong Kinh Thánh, nhưng ở mọi chỗ trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, chi phái Ysơraên về cơ bản vẫn được giữ nguyên hình thức của 12 chi phái. Chi phái Giôsép với danh nghĩa là con trưởng đã được chia thành chi phái Épraim và Manase, và được sáp nhập vào 12 chi phái, vậy nên khi đề cập đến chi phái Giôsép trong Kinh Thánh Cựu Ước thì chi phái Épraim và Manase không xuất hiện, còn khi đề cập đến chi phái Épraim và Manase thì chi phái Giôsép không xuất hiện. Nhưng trong sách Khải Huyền chương 7, là lời tiên tri liên quan đến các thánh đồ sẽ được cứu rỗi chứ không phải là con cái Ysơraên phần xác thịt, thì chi phái Giôsép và Manase cùng xuất hiện.
Danh sách 12 chi phái được đề cập trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước như sau.

  • Sự thay đổi của danh sách 12 chi phái
Tên chi phái Sự chúc phước của Giacốp
(Sáng Thế Ký chương 49)
Tu bộ dân số trong đồng vắng
(Dân Số Ký chương 1, 26)
Lời tiên tri của Êxêchiên
(Êxêchiên chương 48)
Lời tiên tri của Giăng
(Khải Huyền chương 7)
Rubên
Simêôn
Lêvi
Giuđa
Đan Không có
Néptali
Gát
Ase
Ysaca
Sabulôn
Giôsép Không có
Épraim Không có Không có Không có
Manase Không có Không có
Bêngiamin

12 chi phái và cuộc sống đồng vắng

Hiện trạng biến động dân số

Dân Ysơraên đã tiến hành điều tra dân số 2 lần trong đồng vắng theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời.
Điều tra dân số lần thứ nhất được thực hiện trong đồng vắng Sinai vào ngày 1 tháng 2 của năm thứ 2 sau khi ra khỏi xứ Êdíptô. Mục đích của cuộc điều tra dân số thứ nhất là để ước tính số người trên 20 tuổi có thể tham gia chiến đấu. Tổng số nam đinh từ mọi chi phái là 603.550 người.[23] Lúc này, chi phái Lêvi được miễn khỏi việc điều tra dân số vì họ đảm nhiệm công việc phụng sự đền tạm theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời.[24]
Cuộc điều tra dân số lần thứ 2 được thực hiện ở đồng bằng Môáp, phía đông sông Giôđanh, ngay trước khi dân Ysơraên đi vào xứ Canaan. Việc này nhằm mục đích phân chia đất đai tùy theo số người của mỗi chi phái sau khi đi vào xứ Canaan. Đức Chúa Trời đã bắt thăm để chia xứ Canaan theo từng chi phái, Ngài ban nhiều phần cơ nghiệp cho chi phái có số lượng đông và ban ít hơn cho chi phái có số lượng ít.[25] Trừ những người thuộc chi phái Lêvi được miễn khỏi cuộc điều tra dân số do được Đức Chúa Trời biệt riêng ra, thì số nam đinh từ 20 tuổi trở lên là 601.730.[26] Số lượng ít hơn một chút so với cuộc điều tra lần đầu tiên, nhưng không có sự khác biệt lớn.

  • Bảng hiện trạng điều tra dân số lần thứ 1 và lần thứ 2
Tên chi phái Điều tra dân số lần thứ 1 (thứ tự) Điều tra dân số lần thứ 2 (thứ tự) So sánh tăng giảm
Rubên 46.500 người (7) 43.730 người (9) 2.770 người
Simêôn 59.300 người (3) 22.200 người (12) 37.100 người
Lêvi 22.000 người 23.000 người 1.000 người
Giuđa 74.600 người (1) 76.500 người (1) 1.900 người
Đan 62.700 người (2) 64.400 người (2) 1.700 người
Néptali 53.400 người (6) 45.400 người (8) 8.000 người
Gát 45.650 người (8) 40.500 người (10) 5.150 người
Ase 41.500 người (9) 53.400 người (5) 11.900 người
Ysaca 54.400 người (5) 64.300 người (3) 9.900 người
Sabulôn 57.400 người (4) 60.500 người (4) 3.100 người
Épraim 40.500 người (10) 32.500 người (11) 8.000 người
Manase 32.200 người (12) 52.700 người (6) 20.500 người
Bêngiamin 35.400 người(11) 45.600 người (7) 10.200 người
Tổng số 603.550 người 601.730 người 1.820 người

Lý do trong suốt 40 năm sinh hoạt đồng vắng, dân số của 12 chi phái đã bị ngưng lại và thậm chí còn giảm xuống so với sự tăng trưởng mạnh ở xứ Êdíptô trong quá khứ, là bởi những kẻ thờ hình tượng, những kẻ phạm tội tà dâm, những kẻ thử thách Đức Chúa Trời và những kẻ lằm bằm đều đã bị hủy diệt dọc đường.

Song phần nhiều trong vòng họ không đẹp lòng Ðức Chúa Trời, nên đã ngã chết nơi đồng vắng... Cũng đừng thờ hình tượng nữa, như mấy người trong họ, theo lời chép rằng: Dân sự ngồi mà ăn uống, rồi đứng dậy mà chơi giỡn. Chúng ta chớ dâm dục như mấy người trong họ đã dâm dục, mà trong một ngày có hai vạn ba ngàn người bị bỏ mạng. Cũng chớ thử thách Chúa như mấy người trong họ đã thử thách mà bị loài rắn hủy diệt. Lại cũng chớ lằm bằm như mấy người trong họ đã lằm bằm mà bị chết bởi kẻ hủy diệt. Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời.

- I Côrinhtô 10:5-11

Bố trí các trại theo từng chi phái và thứ tự di chuyển

Biểu đồ bố trí các trại trong đồng vắng theo từng chi phái Ysơraên

Khi người dân Ysơraên sống trong đồng vắng, cứ mỗi ba chi phái sẽ đóng trại ở mọi phía xung quanh đền tạm.[27] Lúc này, chi phái Lêvi đảm nhiệm công việc coi sóc đền tạm được bố trí ở giữa trại quân. Chi phái Giuđa, Ysaca và Sabulôn được bố trí ở phía đông; chi phái Rubên, Simêôn và Gát ở phía nam; chi phái Épraim, Manase và Bêngiamin ở phía tây; chi phái Đan, Ase và Néptali ở phía bắc.
Dân Ysơraên đóng trại dưới ngọn cờ mình theo sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, và lần lượt đi ra tùy theo gia đình và tông tộc mình.[28] Đơn vị đi tiên phong trước hết là trại quân Giuđa. Chi phái Giuđa tập hợp đội ngũ và đóng trại trước ngọn cờ mình, chi phái Ysaca và Sabulôn cùng đóng trại ở phía đông theo sau Giuđa. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Giuđa là 186.400 người.[29] Đơn vị đi thứ hai là trại quân Rubên. Chi phái Rubên đã tập hợp đội ngũ và đứng trước lá cờ mình, chi phái Simêôn và Gát cùng đóng trại ở phía nam theo sau Rubên. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Rubên là 151.450 người.[30]
Chi phái Lêvi đảm nhiệm công việc đền tạm sẽ đi giữa các trại quân khác. Tùy theo hành trình của Ysơraên, chi phái Lêvi sẽ tháo dỡ đền tạm khi di chuyển và dựng đền tạm khi ở lại, họ cũng tiến về phía trước theo thứ tự đóng trại và theo ngọn cờ mình.[31] Kế tiếp là trại quân Épraim sẽ đi ra. Chi phái Épraim tập hợp đội ngũ và đứng trước ngọn cờ mình. Chi phái Manase và Bêngiamin cùng đóng trại về phía tây theo sau Épraim. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Épraim là 188.100 người.[32] Cuối cùng là trại quân Đan sẽ đi ra. Chi phái Đan đóng trại ở phía bắc tập hợp đội ngũ và đứng trước ngọn cờ mình, chi phái Ase và Néptali theo sau Đan. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Đan là 157.600.[33]

Ý nghĩa của 12 chi phái trong Kinh Thánh

12 chi phái Ysơraên trong Kinh Thánh biểu tượng cho toàn bộ Ysơraên được Đức Chúa Trời ban phước. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, lịch sử về việc dựng 12 hòn đá xuất hiện ở nhiều nơi là chứng cớ cho biết rằng sự chúc phước của Đức Chúa Trời được bắt đầu từ Ápraham cho đến Ysác và Giacốp, rồi tiếp nối cho 12 con trai của Giacốp. Khi Môise cử hành nghi thức lập giao ước với Đức Chúa Trời tại núi Sinai, ông đã dựng 12 cây cột theo số 12 chi phái Ysơraên.[34] Hơn nữa vào thời Giôsuê, sau khi vượt qua sông Giôđanh, dân Ysơraên đã mang theo 12 hòn đá theo số các chi phái Ysơraên và đặt chúng tại Ghinhganh và dưới lòng sông.[35] Vào thời đại vương quốc bị phân chia, khi đấng tiên tri Êli đối đầu với các tiên tri của Baanh trên núi Cạtmên, ông đã lấy 12 viên đá theo số chi phái của các con trai Giacốp và sửa lại bàn thờ của Đức Chúa Trời.[36]

Chú thích

  1. 1,0 1,1 “Sáng Thế Ký 49:1-28”. Gia-cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng ... Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Ysơraên; và đó là lời của cha họ nói đương khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người vậy.
  2. GospelServe, “12 chi phái”,《Từ điển thuật ngữ hội thánh: Church Daily Life》, NXB Lời sự sống, 2013, "Mười hai chi phái với mười hai con trai của Giacốp làm quan trưởng (Sáng Thế Ký 49:28; Xuất Êdíptô Ký 28:21)”
  3. GospelServe, “Chi phái”, 《Từ điển Kinh Thánh cuộc sống》, NXB Lời sự sống, 2006, “Đơn vị cơ bản để người dân Ysơraên hình thành nên xã hội (Xuất Êdíptô Ký 31:2). Gần giống với khái niệm ‘bộ tộc’”.
  4. “Sáng thế ký 17:7-8”. Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự ngươi trải qua các đời; ấy là giao ước đời đời, hầu cho ta làm Đức Chúa Trời của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Canaan, làm cơ nghiệp đời đời. Vậy, ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ.
  5. “Giôsuê 13:8-19:51”. Người Rubên, người Gát, và phân nửa chi phái Manase đã lãnh bởi Môise phần sản nghiệp mình ở bên kia sông Giôđanh về phía đông, y như Môise, tôi tớ Đức Giêhôva, đã phát cho chúng nó; ... Đó là các sản nghiệp mà thầy tế lễ Êlêasa, Giôsuê, con trai của Nun, và các trưởng tộc của những chi phái dân Ysơraên, bắt thăm phân phát cho, tại Silô, ở cửa hội mạc trước mặt Đức Giêhôva. Ấy họ chia xong xứ là như vậy.
  6. “Strong's #7205 - רְאוּבֵן”. StudyLight.
  7. “Strong's #8095 - שִׁמְעוֹן”. StudyLight.
  8. “Strong's #3878 - לֵוִי”. StudyLight.
  9. “Strong's #3063 - יְהוּדָה”. StudyLight.
  10. “Strong's #1835 - דָּן”. StudyLight.
  11. “Strong's #5321 - נַפְתָּלִי”. StudyLight.
  12. “Strong's #1410 - גָּד”. StudyLight.
  13. “Strong's #836 - אָשֵׁר”. StudyLight.
  14. “Strong's #3485 - יִשָּׂשׂכָר”. StudyLight.
  15. “Strong's #2074 - זְבוּלֻן”. StudyLight.
  16. “Strong's #3084 - יְהוֹסֵף”. StudyLight.
  17. “Strong's #1144 - בִּנְיָמִין”. studyLight.
  18. “Xuất Êdíptô Ký 28:21”. Số các ngọc đó hết thảy là mười hai viên, tùy theo tên các con trai Ysơraên; trên mỗi viên ngọc sẽ khắc tên của một trong mười hai chi phái Ysơraên, như người ta khắc con dấu vậy.
  19. “Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:1”. Vả, nầy là lời chúc phước mà Môise, người của Đức Chúa Trời, chúc cho dân Ysơraên, trước khi qua đời.
  20. “Giôsuê 14:4”. Con cháu Giôsép phân làm hai chi phái, là Manase và Épraim
  21. “Sáng Thế Ký 48:5-6”. Bây giờ, hai đứa con trai đã sanh cho con(Giôsép) tại xứ Êdíptô trước khi cha(Giacốp) đến, là Épraim và Manase, cũng sẽ thuộc về cha như Rubên và Simêôn vậy. Còn mấy đứa mà con sanh kế đó, thì sẽ thuộc về con; về phần hưởng cơ nghiệp, chúng nó sẽ đồng một thể cùng anh em mình.
  22. “Dân Số Ký 3:6-12”. Hãy khiến chi phái Lêvi lại gần, đặt trước thầy tế lễ Arôn, để người Lêvi phục sự người. ... Nầy, từ giữa dân Ysơraên ta chọn lấy người Lêvi thế cho hết thảy con đầu lòng của dân Ysơraên; vậy, người Lêvi sẽ thuộc về ta.
  23. “Dân Số Ký 1:1-46”. Ngày mồng một tháng hai, năm thứ hai, sau khi dân Ysơraên ra khỏi xứ Êdíptô, Đức Giêhôva phán cùng Môise ở trong hội mạc, tại đồng vắng Sinai, mà rằng: Hãy dựng sổ cả hội dân Ysơraên, theo họ hàng và tông tộc của họ, cứ đếm từng tên của hết thảy nam đinh, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Ysơraên đi ra trận được; ngươi và Arôn sẽ kê sổ chúng nó tùy theo đội ngũ của họ...số là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi.
  24. “Dân Số Ký 1:49-50”. Ngươi chớ kê sổ chi phái Lêvi, và cũng đừng dựng bộ họ chung với dân Ysơraên; nhưng hãy cắt phần người Lêvi coi sóc đền tạm chứng cớ, hết thảy đồ đạc và các món thuộc về đền tạm. Ấy là người Lê-vi sẽ chuyên vận đền tạm và hết thảy đồ đạc nó, cùng sẽ làm công việc về đền tạm và đóng trại ở chung quanh đền tạm.
  25. “Dân Số Ký 26:52-56”. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Phải tùy theo số các danh mà chia xứ ra cho những người nầy làm sản nghiệp; chi phái nào số dân đông thì ngươi phải cho một sản nghiệp lớn hơn, chi phái nào số dân ít, thì phải cho một sản nghiệp nhỏ hơn, tức là phải cho mỗi chi phái sản nghiệp mình cân phân cùng số tu bộ. Nhưng phải bắt thăm mà chia xứ ra; dân Ysơraên sẽ lãnh phần sản nghiệp mình theo tên của các chi phái tổ tông. Phải tùy sự bắt thăm mà chia sản nghiệp ra cho mỗi chi phái, hoặc số dân đông hay ít.
  26. “Dân Số Ký 26:51”. Đó là những người trong dân Ysơraên mà người ta tu bộ lại: số là sáu trăm một ngàn bảy trăm ba mươi người.
  27. “Dân Số Ký 2:2”. Dân Ysơraên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở dưới bảng hiệu của tông tộc mình, đối ngang nhau vây chung quanh hội mạc.
  28. “Dân Số Ký 2:34”. Dân Ysơraên y theo mọi điều Đức Giêhôva đã phán dặn Môise, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình.
  29. “Dân Số Ký 2:9”. Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Giuđa, từng đội ngũ, cộng một trăm tám mươi sáu ngàn bốn trăm người. Họ phải đi tiên phong.
  30. “Dân Số Ký 2:16”. Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Rubên, từng đội ngũ, cộng một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Họ phải đi thứ nhì.
  31. “Dân Số Ký 2:17”. Sau ấy, hội mạc sẽ đi với trại quân Lêvi, ở giữa các trại quân khác; trại quân Lêvi sẽ đi theo thứ tự như đã đóng, mỗi người theo hàng ngũ và theo ngọn cờ mình.
  32. “Dân Số Ký 2:24”. Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Épraim, từng đội ngũ, cộng một trăm tám ngàn một trăm người. Họ phải đi thứ ba.
  33. “Dân Số Ký 2:31”. Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Đan, cộng một trăm năm mươi bảy ngàn sáu trăm người. Họ theo ngọn cờ mình phải đi hậu binh.
  34. “Xuất Êdíptô Ký 24:4-8”. Môi-se chép hết mọi lời của Đức Giêhôva; rồi dậy sớm, xây một bàn thờ nơi chân núi, dựng mười hai cây trụ chỉ về mười hai chi phái Ysơraên. ... Môise bèn lấy huyết rưới trên mình dân sự mà nói rằng: Đây là huyết giao ước của Đức Giêhôva đã lập cùng các ngươi y theo mọi lời nầy.
  35. “Giôsuê 4:8-9”. Vậy, dân Ysơraên làm theo điều Giôsuê đã biểu, bèn lấy mười hai hòn đá ở giữa sông Giôđanh, theo số chi phái dân Ysơraên, và đem nó theo cùng mình đến chỗ nào phải ngủ ban đêm, rồi đặt tại đó, y như Đức Giêhôva đã phán dặn Giôsuê. Giôsuê cũng dựng mười hai hòn đá giữa sông Giôđanh, tại nơi chơn những thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đã đứng; các hòn đá ấy hãy còn ở đó cho đến ngày nay.
  36. “I Các Vua 18:30-31”. Bấy giờ, Êli nói với cả dân sự rằng: Hãy đến gần ta. Dân sự bèn đến gần người. Đoạn, Êli sửa lại cái bàn thờ của Đức Giêhôva bị phá hủy. Người lấy mười hai chi phái của các con trai Giacốp, là người mà lời của Đức Giêhôva đã phán cho rằng: Ysơraên sẽ là tên ngươi.