12 chi phái

Từ Từ điển tri thức Hội Thánh của Đức Chúa Trời
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Xứ Canaan được phân chia cho 12 chi phái Ysơraên

12 chi phái (Twelve Tribes) là mười hai gia tộc có nguồn gốc từ 12 con trai của Giacốp, là tổ phụ của Ysơraên.[1][2] Giacốp đã vật lộn với Đức Chúa Trời tại rạch Giabốc và được thắng, từ đó mới được đặt tên là “Ysơraên”, nghĩa là “vật lộn với Đức Chúa Trời và được thắng”. Giacốp có 12 con trai với 2 người vợ là Lêa và Rachên, cùng hai nàng hầu là Bila và Xinhba. Con cháu của 12 người con trai đã tăng trưởng lên nhiều và hình thành các “chi phái” riêng biệt. Chi phái là đơn vị cơ bản để người dân Ysơraên hình thành nên xã hội, tương tự với khái niệm “bộ tộc”.[3]
Trong quá khứ, Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham rằng sẽ ban xứ Canaan làm cơ nghiệp đời đời cho con cháu ông sau này.[4] Để làm ứng nghiệm lời hứa ấy, Ngài đã phân chia xứ Canaan theo từng chi phái cho người dân Ysơraên đã đi vào xứ Canaan theo sự chỉ huy của Giôsuê.[5] Trong số đó, chi phái Giuđa và chi phái Épraim sau này đã lần lượt trở thành các chi phái trung tâm của vương quốc Nam Giuđavương quốc Bắc Ysơraên vào thời kỳ vương quốc bị phân chia.

Nguồn gốc của 12 chi phái

Giacốp đã vật lộn với Đức Chúa Trời và được thắng, bởi đó Đức Chúa Trời đặt tên cho ông là “Ysơraên”. Đức Chúa Trời đã hứa với Giacốp rằng sẽ làm cho dòng dõi của ông thành một dân tộc lớn. Theo lời hứa của Đức Chúa Trời, Giacốp sanh được 12 con trai từ 2 người vợ chính là Lêa và Rachên, cùng các nàng hầu là Bila và Xinhba. Con cháu của 12 người con trai này đã phát triển mạnh mẽ và hình thành nên các chi phái của Ysơraên. Còn được gọi là “12 chi phái”.

  • 12 con trai của Giacốp trở thành nền tảng của 12 chi phái
1 2 3 4 5 6
Rubên(רְאוּבֵן)[6] Simêôn(שִׁמְעוֹן)[7] Lêvi(לֵוִי)[8] Giuđa(יְהוּדָה)[9] Đan(דָּן)[10] Néptali(נַפְתָּלִי)[11]
Lêa Bila (Con đòi của Rachên)
7 8 9 10 11 12
Gát(גָּד)[12] Ase(אָשֵׁר)[13] Ysaca(יִשָּׂשׂכָר)[14] Sabulôn(זְבוּלוּן)[15] Giôsép(יְהוֹסֵף)[16] Bêngiamin(בִּנְיָמִין)[17]
Xinhba (Con đòi của Lêa) Lêa Rachên

Vì đây là tên gọi bắt nguồn từ 12 con trai của Giacốp, nên 12 chi phái ban đầu được gọi là Rubên, Simêôn, Lêvi, Giuđa, Đan, Néptali, Gát, Ase, Ysaca, Sabulôn, Giôsép và Bêngiamin. Ngay cả khi 12 viên ngọc được gắn trên bảng đeo ngực của thầy tế lễ thượng phẩm, Đức Chúa Trời cũng cho khắc tên 12 con trai của Giacốp, nghĩa là 12 chi phái Ysơraên.[18] Tên của 12 con trai này đã trở thành 12 chi phái tượng trưng cho cả dân tộc Ysơraên.
Trước khi qua đời, Giacốp đã để lại di chúc và lời chúc phước cho 12 con trai của mình, và Môise cũng vì con cháu Ysơraên mà chúc phước cho từng chi phái trước khi qua đời.[19][20] Lời chúc phước này đã trở thành lời tiên tri về tương lai của mỗi chi phái, và tất cả đã được ứng nghiệm trong lịch sử Ysơraên.

Tên của các chi phái Ysơraên

Thuật ngữ “12 chi phái” bắt nguồn từ 12 con trai của Giacốp, là cách diễn đạt mang tính biểu tượng chỉ về dân tộc Ysơraên, nhưng trên thực tế các chi phái Ysơraên xuất hiện trong Kinh Thánh có tổng cộng 14 tên gọi, đó là chi phái Rubên, chi phái Simêôn, chi phái Lêvi, chi phái Giuđa, chi phái Đan, chi phái Néptali, chi phái Gát, chi phái Ase, chi phái Ysaca, chi phái Sabulôn, chi phái Giôsép, chi phái Épraim, chi phái Manase và chi phái Bêngiamin.
Sở dĩ 2 chi phái được thêm vào là vì trước khi qua đời, Giacốp đã coi Épraim và Manase - 2 con trai của Giôsép như con ruột của mình, nên dòng dõi của Giôsép sau này trở thành 2 chi phái là chi phái Épraim và chi phái Manase.[21][22]
Còn chi phái Lêvi đã được Đức Chúa Trời biệt riêng ra thánh, hầu cho họ làm sở hữu của Ngài và giao phó công việc coi sóc đền tạm, nên khi tu bộ dân số nhằm đếm số nam đinh trên 20 tuổi có thể ra trận thì không bao gồm số lượng con cháu Lêvi, và kể cả khi phân chia xứ Canaan, không giống với các chi phái khác, chi phái Lêvi chỉ được cấp cho các làng xung quanh và thành ấp để cư ngụ.[23]

  • Chi phái Ysơraên
Tên chi phái Tên của mẹ Ý nghĩa của các tên Phân chia xứ Canaan (lấy sông Giôđanh làm tiêu chuẩn) Nhân vật xuất thân từ chi phái này
1 Rubên Lêa Này, hãy coi một đứa con trai Khu vực miền nam, phía đông sông Giôđanh
2 Simêôn Lêa (Đức Chúa Trời) nghe biết Khu vực miền nam, phía tây sông Giôđanh
3 Lêvi Lêa Người dính díu (kết hợp) Không được phân chia đất đai Môise, Giăng Báptít
4 Giuđa Lêa Ngợi khen Khu vực miền nam, phía tây sông Giôđanh Calép, Đavít, Đức Chúa Jêsus
5 Đan Bila
(Con đòi của Rachên)
Giải oan, sự xét công bình của Đức Giêhôva Khu vực miền trung, phía tây sông Giôđanh Samsôn
6 Néptali Bila
(Con đòi của Rachên)
Cạnh tranh, đấu địch Vùng núi Galilê, phía tây sông Giôđanh
7 Gát Xinhba
(Con đòi của Lêa)
Phước Khu vực miền trung, phía đông sông Giôđanh Giépthê
8 Ase Xinhba
(Con đòi của Lêa)
Vui mừng, hạnh phúc Bờ biển Địa Trung Hải, miền bắc, phía tây sông Giôđanh
9 Ysaca Lêa Người sẽ đền công cho Miền bắc, phía tây sông Giôđanh Thôla, Baêsa
10 Sabulôn Lêa Ở cùng tôi Khu vực Galilê, phía tây sông Giôđanh Êlôn, Giôna
11 Giôsép Rachên Đức Chúa Trời sẽ thêm cho ×
12 Épraim Áchnát Thịnh vượng, hưng vượng bằng hai Khu vực miền trung, phía tây sông Giôđanh Giôsuê, Đêbôra
13 Manase Áchnát Kẻ làm cho ta quên Khu vực miền bắc Galaát về phía đông sông Giôđanh và khu vực miền trung bắc về phía tây sông Giôđanh. Ghêđêôn
14 Bêngiamin Rachên Con trai tay hữu Khu vực miền trung nam, phía tây sông Giôđanh

Sự thay đổi của danh sách 12 chi phái

Có tổng cộng 14 chi phái xuất hiện trong Kinh Thánh, nhưng ở mọi chỗ trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, chi phái Ysơraên về cơ bản vẫn được giữ nguyên hình thức của 12 chi phái. Chi phái Giôsép với danh nghĩa là con trưởng đã được chia thành chi phái Épraim và Manase, và được sáp nhập vào 12 chi phái, vậy nên khi đề cập đến chi phái Giôsép trong Kinh Thánh Cựu Ước thì chi phái Épraim và Manase không xuất hiện, còn khi đề cập đến chi phái Épraim và Manase thì chi phái Giôsép không xuất hiện. Nhưng trong sách Khải Huyền chương 7, là lời tiên tri liên quan đến các thánh đồ sẽ được cứu rỗi chứ không phải là con cái Ysơraên phần xác thịt, thì chi phái Giôsép và Manase cùng xuất hiện.
Danh sách 12 chi phái được đề cập trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước như sau.

  • Sự thay đổi của danh sách 12 chi phái
Tên chi phái Sự chúc phước của Giacốp
(Sáng Thế Ký chương 49)
Tu bộ dân số trong đồng vắng
(Dân Số Ký chương 1, 26)
Lời tiên tri của Êxêchiên
(Êxêchiên chương 48)
Lời tiên tri của Giăng
(Khải Huyền chương 7)
Rubên O O O O
Simêôn O O O O
Lêvi O O O O
Giuđa O O O O
Đan O O O ×
Néptali O O O O
Gát O O O O
Ase O O O O
Ysaca O O O O
Sabulôn O O O O
Giôsép O × O O
Épraim × O × ×
Manase × O × O
Bêngiamin O O O O

12 chi phái và cuộc sống đồng vắng

Hiện trạng biến động dân số

Dân Ysơraên đã tiến hành điều tra dân số 2 lần trong đồng vắng theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời.
Điều tra dân số lần thứ nhất được thực hiện trong đồng vắng Sinai vào ngày 1 tháng 2 của năm thứ 2 sau khi ra khỏi xứ Êdíptô. Mục đích của cuộc điều tra dân số thứ nhất là để ước tính số người trên 20 tuổi có thể tham gia chiến đấu. Tổng số nam đinh từ mọi chi phái là 603.550 người.[24] Lúc này, chi phái Lêvi được miễn khỏi việc điều tra dân số vì họ đảm nhiệm công việc phụng sự đền tạm theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời.[25]
Cuộc điều tra dân số lần thứ 2 được thực hiện ở đồng bằng Môáp, phía đông sông Giôđanh, ngay trước khi dân Ysơraên đi vào xứ Canaan. Việc này nhằm mục đích phân chia đất đai tùy theo số người của mỗi chi phái sau khi đi vào xứ Canaan. Đức Chúa Trời đã bắt thăm để chia xứ Canaan theo từng chi phái, Ngài ban nhiều phần cơ nghiệp cho chi phái có số lượng đông và ban ít hơn cho chi phái có số lượng ít.[26] Trừ những người thuộc chi phái Lêvi được miễn khỏi cuộc điều tra dân số do được Đức Chúa Trời biệt riêng ra, thì số nam đinh từ 20 tuổi trở lên là 601.730.[27] Số lượng ít hơn một chút so với cuộc điều tra lần đầu tiên, nhưng không có sự khác biệt lớn.

  • Bảng hiện trạng điều tra dân số lần thứ 1 và lần thứ 2
Tên chi phái Điều tra dân số lần thứ 1 (thứ tự) Điều tra dân số lần thứ 2 (thứ tự) So sánh tăng giảm
So sánh tăng giảm 46.500 người (7) 43.730 người (9) 2.770 người
Simêôn 59.300 người (3) 22.200 người (12) 37.100 người
Lêvi 22.000 người 23.000 người 1.000 người
Giuđa 74.600 người (1) 76.500 người (1) 1.900 người
Đan 62.700 người (2) 64.400 người (2) 1.700 người
Néptali 53.400 người (6) 45.400 người (8) 8.000 người
Gát 45.650 người (8) 40.500 người (10) 5.150 người
Ase 41.500 người (9) 53.400 người (5) 11.900 người
Ysaca 54.400 người (5) 64.300 người (3) 9.900 người
Sabulôn 57.400 người (4) 60.500 người (4) 3.100 người
Épraim 40.500 người (10) 32.500 người (11) 8.000 người
Manase 32.200 người (12) 52.700 người (6) 20.500 người
Bêngiamin 35.400 người(11) 45.600 người (7) 10.200 người
Tổng số 603.550 người 601.730 người 1.820 người

Lý do trong suốt 40 năm sinh hoạt đồng vắng, dân số của 12 chi phái đã bị ngưng lại và thậm chí còn giảm xuống so với sự tăng trưởng mạnh ở xứ Êdíptô trong quá khứ, là bởi những kẻ thờ hình tượng, những kẻ phạm tội tà dâm, những kẻ thử thách Đức Chúa Trời và những kẻ lằm bằm đều đã bị hủy diệt dọc đường.

Song phần nhiều trong vòng họ không đẹp lòng Ðức Chúa Trời, nên đã ngã chết nơi đồng vắng... Cũng đừng thờ hình tượng nữa, như mấy người trong họ, theo lời chép rằng: Dân sự ngồi mà ăn uống, rồi đứng dậy mà chơi giỡn. Chúng ta chớ dâm dục như mấy người trong họ đã dâm dục, mà trong một ngày có hai vạn ba ngàn người bị bỏ mạng. Cũng chớ thử thách Chúa như mấy người trong họ đã thử thách mà bị loài rắn hủy diệt. Lại cũng chớ lằm bằm như mấy người trong họ đã lằm bằm mà bị chết bởi kẻ hủy diệt. Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời.

- I Côrinhtô 10:5-11

Bố trí các trại theo từng chi phái và thứ tự di chuyển

Biểu đồ bố trí các trại trong đồng vắng theo từng chi phái Ysơraên

Khi người dân Ysơraên sống trong đồng vắng, cứ mỗi ba chi phái sẽ đóng trại ở mọi phía xung quanh đền tạm.[28] Lúc này, chi phái Lêvi đảm nhiệm công việc coi sóc đền tạm được bố trí ở giữa trại quân. Chi phái Giuđa, Ysaca và Sabulôn được bố trí ở phía đông; chi phái Rubên, Simêôn và Gát ở phía nam; chi phái Épraim, Manase và Bêngiamin ở phía tây; chi phái Đan, Ase và Néptali ở phía bắc.
Dân Ysơraên đóng trại dưới ngọn cờ mình theo sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, và lần lượt đi ra tùy theo gia đình và tông tộc mình.[29] Đơn vị đi tiên phong trước hết là trại quân Giuđa. Chi phái Giuđa tập hợp đội ngũ và đóng trại trước ngọn cờ mình, chi phái Ysaca và Sabulôn cùng đóng trại ở phía đông theo sau Giuđa. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Giuđa là 186.400 người.[30] Đơn vị đi thứ hai là trại quân Rubên. Chi phái Rubên đã tập hợp đội ngũ và đứng trước lá cờ mình, chi phái Simêôn và Gát cùng đóng trại ở phía nam theo sau Rubên. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Rubên là 151.450 người.[31]
Chi phái Lêvi đảm nhiệm công việc đền tạm sẽ đi giữa các trại quân khác. Tùy theo hành trình của Ysơraên, chi phái Lêvi sẽ tháo dỡ đền tạm khi di chuyển và dựng đền tạm khi ở lại, họ cũng tiến về phía trước theo thứ tự đóng trại và theo ngọn cờ mình.[32] Kế tiếp là trại quân Épraim sẽ đi ra. Chi phái Épraim tập hợp đội ngũ và đứng trước ngọn cờ mình. Chi phái Manase và Bêngiamin cùng đóng trại về phía tây theo sau Épraim. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Épraim là 188.100 người.[33] Cuối cùng là trại quân Đan sẽ đi ra. Chi phái Đan đóng trại ở phía bắc tập hợp đội ngũ và đứng trước ngọn cờ mình, chi phái Ase và Néptali theo sau Đan. Tổng số người của các đội ngũ thuộc trại quân Đan là 157.600.[34]

Ý nghĩa của 12 chi phái trong Kinh Thánh

12 chi phái Ysơraên trong Kinh Thánh biểu tượng cho toàn bộ Ysơraên được Đức Chúa Trời ban phước. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, lịch sử về việc dựng 12 hòn đá xuất hiện ở nhiều nơi là chứng cớ cho biết rằng sự chúc phước của Đức Chúa Trời được bắt đầu từ Ápraham cho đến Ysác và Giacốp, rồi tiếp nối cho 12 con trai của Giacốp. Khi Môise cử hành nghi thức lập giao ước với Đức Chúa Trời tại núi Sinai, ông đã dựng 12 cây cột theo số 12 chi phái Ysơraên.[35] Hơn nữa vào thời Giôsuê, sau khi vượt qua sông Giôđanh, dân Ysơraên đã mang theo 12 hòn đá theo số các chi phái Ysơraên và đặt chúng tại Ghinhganh và dưới lòng sông.[36] Vào thời đại vương quốc bị phân chia, khi đấng tiên tri Êli đối đầu với các tiên tri của Baanh trên núi Cạtmên, ông đã lấy 12 viên đá theo số chi phái của các con trai Giacốp và sửa lại bàn thờ của Đức Chúa Trời.[37]

Chú thích

  1. “Sáng Thế Ký 49:1-28”. Gia-cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng ... Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Ysơraên; và đó là lời của cha họ nói đương khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người vậy.
  2. 가스펠서브, "열두 지파",《교회용어사전: 교회 일상》, 생명의말씀사, 2013, "야곱의 열두 아들을 족장으로 하는 열두 가문(창 49:28; 출 28:21)."
  3. 가스펠서브, "지파", 《라이프성경사전》, 생명의말씀사, 2006, "이스라엘 백성이 사회를 구성하는 기본 단위(출 31:2). 거의 '부족' 개념과 흡사하다."
  4. “Sáng thế ký 17:7-8”. Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự ngươi trải qua các đời; ấy là giao ước đời đời, hầu cho ta làm Đức Chúa Trời của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Canaan, làm cơ nghiệp đời đời. Vậy, ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ.
  5. “Giôsuê 13:8-19:51”. Người Rubên, người Gát, và phân nửa chi phái Manase đã lãnh bởi Môise phần sản nghiệp mình ở bên kia sông Giôđanh về phía đông, y như Môise, tôi tớ Đức Giêhôva, đã phát cho chúng nó; ... Đó là các sản nghiệp mà thầy tế lễ Êlêasa, Giôsuê, con trai của Nun, và các trưởng tộc của những chi phái dân Ysơraên, bắt thăm phân phát cho, tại Silô, ở cửa hội mạc trước mặt Đức Giêhôva. Ấy họ chia xong xứ là như vậy.
  6. “Strong's #7205 - רְאוּבֵן”. StudyLight.
  7. “Strong's #8095 - שִׁמְעוֹן”. StudyLight.
  8. “Strong's #3878 - לֵוִי”. StudyLight.
  9. “Strong's #3063 - יְהוּדָה”. StudyLight.
  10. “Strong's #1835 - דָּן”. StudyLight.
  11. “Strong's #5321 - נַפְתָּלִי”. StudyLight.
  12. “Strong's #1410 - גָּד”. StudyLight.
  13. “Strong's #836 - אָשֵׁר”. StudyLight.
  14. “Strong's #3485 - יִשָּׂשׂכָר”. StudyLight.
  15. “Strong's #2074 - זְבוּלֻן”. StudyLight.
  16. “Strong's #3084 - יְהוֹסֵף”. StudyLight.
  17. “Strong's #1144 - בִּנְיָמִין”. studyLight.
  18. “Xuất Êdíptô Ký 28:21”. Số các ngọc đó hết thảy là mười hai viên, tùy theo tên các con trai Ysơraên; trên mỗi viên ngọc sẽ khắc tên của một trong mười hai chi phái Ysơraên, như người ta khắc con dấu vậy.
  19. “Sáng Thế Ký 49:1-28”. Giacốp gọi các con trai mình lại và nói rằng: Hãy hội lại đây, cha sẽ nói những điều phải xảy đến cho các con ngày sau. Hỡi các con trai Giacốp, hãy hội lại mà nghe; Nghe lời Ysơraên, cha của các con.... Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Ysơraên; và đó là lời của cha họ nói đương khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người vậy.
  20. “Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:1”. Vả, nầy là lời chúc phước mà Môise, người của Đức Chúa Trời, chúc cho dân Ysơraên, trước khi qua đời.
  21. “여호수아 14:4”. 요셉 자손은 므낫세와 에브라임의 두 지파가 되었음이라
  22. “창세기 48:5-6”. 내[야곱]가 애굽으로 와서 네[요셉]게 이르기 전에 애굽에서 네게 낳은 두 아들 에브라임과 므낫세는 내 것이라 르우벤과 시므온처럼 내 것이 될 것이요 이들 후의 네 소생이 네 것이 될 것이며 그 산업은 그 형의 명의하에서 함께 하리라
  23. “민수기 3:6-12”. 레위 지파로 나아와 제사장 아론 앞에 서서 그에게 시종하게 하라 ... 보라 내가 이스라엘 자손 중에서 레위인을 택하여 이스라엘 자손 중 모든 첫 태에 처음 난 자를 대신케 하였은즉 레위인은 내 것이라
  24. “민수기 1:1-46”. 이스라엘 자손이 애굽 땅에서 나온 후 제 이년 이월 일일에 여호와께서 시내 광야 회막에서 모세에게 일러 가라사대 너희는 이스라엘 자손의 모든 회중 각 남자의 수를 그들의 가족과 종족을 따라 그 명수대로 계수할지니 이스라엘 중 이십 세 이상으로 싸움에 나갈 만한 모든 자를 너와 아론은 그 군대대로 계수하되 ... 계수함을 입은 자의 총계가 육십만 삼천오백오십 명이었더라
  25. “민수기 1:49-51”. 레위 지파만은 너는 계수치 말며 그들을 이스라엘 자손 계수 중에 넣지 말고 그들로 증거막과 그 모든 기구와 그 모든 부속품을 관리하게 하라 그들은 그 장막과 그 모든 기구를 운반하며 거기서 봉사하며 장막 사면에 진을 칠지며
  26. “민수기 26:52-55”. 여호와께서 모세에게 일러 가라사대 이 명수대로 땅을 나눠주어 기업을 삼게 하라 수가 많은 자에게는 기업을 많이 줄 것이요 수가 적은 자에게는 기업을 적게 줄 것이니 그들의 계수함을 입은 수대로 각기 기업을 주되 오직 그 땅을 제비 뽑아 나누어 그들의 조상 지파의 이름을 따라 얻게 할지니라
  27. “민수기 26:51”. 이스라엘 자손의 계수함을 입은 자가 육십만 일천칠백삼십 명이었더라
  28. “민수기 2:2”. 이스라엘 자손은 각각 그 기와 그 종족의 기호 곁에 진을 치되 회막을 사면으로 대하여 치라
  29. “민수기 2:34”. 이스라엘 자손이 여호와께서 모세에게 명하신대로 다 준행하여 각기 가족과 종족을 따르며 그 기를 따라 진 치기도 하며 진행하기도 하였더라
  30. “민수기 2:9”. 유다 진에 속한 군대의 계수함을 입은 군대의 총계가 십팔만 육천사백 명이라 그들은 제일대로 진행할지니라
  31. “민수기 2:16”. 르우벤 진에 속한 계수함을 입은 군대의 총계가 십오만 일천사백오십 명이라 그들은 제이대로 진행할지니라
  32. “민수기 2:17”. 그 다음에 회막이 레위인의 진과 함께 모든 진의 중앙에 있어 진행하되 그들의 진 친 순서대로 각 사람은 그 위치에서 그 기를 따라 앞으로 행할지니라
  33. “민수기 2:24”. 에브라임 진에 속한 계수함을 입은 군대의 총계가 십만 팔천일백 명이라 그들은 제삼대로 진행할지니라
  34. “민수기 2:31”. 단의 진에 속한 계수함을 입은 군대의 총계가 십오만 칠천육백 명이라 그들은 기를 따라 후대로 진행할지니라 하시니라
  35. “출애굽기 24:4-8”. 모세가 여호와의 모든 말씀을 기록하고 이른 아침에 일어나 산 아래 단을 쌓고 이스라엘 십이 지파대로 열두 기둥을 세우고 ... 그 피를 취하여 백성에게 뿌려 가로되 이는 여호와께서 이 모든 말씀에 대하여 너희와 세우신 언약의 피니라
  36. “여호수아 4:8-9”. 여호와께서 여호수아에게 이르신 대로 이스라엘 자손들의 지파 수를 따라 요단 가운데서 돌 열둘을 취하여 자기들의 유숙할 곳으로 가져다가 거기 두었더라 여호수아가 또 요단 가운데 곧 언약궤를 멘 제사장들의 발이 선 곳에 돌 열둘을 세웠더니 오늘까지 거기 있더라
  37. “열왕기상 18:30-31”. 엘리야가 모든 백성을 향하여 이르되 내게로 가까이 오라 백성이 다 저에게 가까이 오매 저가 무너진 여호와의 단을 수축하되 야곱의 아들들의 지파의 수효를 따라 열두 돌을 취하니 이 야곱은 여호와께서 옛적에 저에게 임하여 이르시기를 네 이름을 이스라엘이라 하리라 하신 자더라